Cảm hứng chủ đạo của văn
học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là cảm hứng yêu nước. Tình cảm yêu nước sôi nổi nồng
nàn của dân tộc Đại Việt trong tiến trình lịch sử oai hùng đấu tranh dựng nước và giữ
nước đã chi phối và tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học để rồi kết tinh nên
ba áng thiên cổ hùng văn bất hủ trong đó có “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn và “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn. Qua hai tác phẩm này ta có thể nhận thấy rằng
trong một tập thể người lãnh đạo có vai trò vô cùng quan trọng trong việc tạo
ra sức mạnh cho tập thể. Các tác phẩm đã gợi cho ta nhiều suy ngẫm về nhân cách, trách nhiệm, tấm lòng của người đứng đầu đối với vận mệnh đất nước và dân tộc.
Quả thực quá khứ của
dân tộc để lại cho chúng ta lòng ngưỡng mộ về rất nhiều những nhà lãnh đạo tài
ba có thể kể đến như Lý Công Uẩn, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn,… Tài năng lãnh
đạo của họ có thể được nhìn nhận từ nhiều góc độ, thậm chí từ các tác phẩm văn
thơ của họ.
Vừa mới suy tôn lên làm
vua, chưa kịp hưởng vinh hoa phú quý của một vị đế vương, Lý Thái Tổ đã nghĩ
ngay đến việc dời đô.Dường như ý nghĩ ấy đã nung nấu trong ông từ rất lâu rồi,
nay mới có dịp thực hiện. Đối với một đất nước, kinh đô là trung tâm của quốc
gia, vì vậy chuyện dời đô không bao giờ là chuyện nhỏ, huống hồ trong thời kì “
trứng nước” của một thời đại. Người ta thường nói đến sự vĩ đại của Nga hoàng Pi-e. Một
trong những hành động “ghê gớm” nhất, gây nên nhiều bất ổn khi vua quyết định dời
đô xuống một vùng đầm lầy.Theo nhà vua đó là cách để phát triển lực lượng hải
quân, là cách để xóa bỏ đi hình ảnh nước Nga xưa cũ và lạc hậu. Đưa thủ đô đến đầm
lầy để có thành Pê-téc-bua là một thử thách. Nếu làm được chứng tỏ dân Nga có những
khả năng tìm tàng to lớn. Lý Thái Tổ cũng vậy,ông đã nói lên mục đích của việc dời
đô là để “đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho
con cháu, trên theo mệnh trời, dưới theo ý dân".“Chiếu dời đô” có một ý nghĩa rất
đặc biệt, không chỉ bởi “nghĩa sâu, ý xa, lí rành, khí mạch, lời giàu, văn hay”
mà còn vì bản chiếu thư này đã tạo được một bước ngoặc không nhỏ đối với vận mệnh
đất nước lúc bấy giờ, đồng thời còn thể hiện tầm nhìn sâu rộng, ý chí giữ vững
nền độc lập cùng tấm lòng với nước non của vị vua mới.
Đối với Lý công Uẩn, việc
dời đô không còn là chuyện hi hữu mà đó là kinh nghiệm lịch sử phản ánh được xu
thế phát triển của từng quốc gia, từng thời đại. Ông đã nêu ra dẫn chứng để thu
phục nhân tâm của nhân dân. Chuyện ở xa là chuyện bên Tàu: “Xưa nhà Thương đến
vua Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô”. Ở gần
là nước ta thời nhà Đinh, nhà Lê vì “ theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời”
cứ “ đóng yên đô thành” nên dẫn đến thảm kịch. Sử sách cho biết, sau khi dẹp
tan 12 sứ quân, khi lên ngôi năm 968 chưa lâu thì ông bị ám hại năm 979. Đến
năm 981, Lê Hoàn lên thay. Tuy đánh thắng giặc Tống nhưng năm 1005, Lê Đại
Thành băng hà thì triều đình lục đục. Hai triều đại Đinh, Lê thực chất phải
đóng đô do nhiều nguyên nhân: nước phong kiến Việt Nam chưa đủ mạnh, nạn cát cứ của
các lãnh chúa hoành hành giặc giã loạn lạc kéo đến. Do đó các vua Đinh, lê phải dựa vào sông sâu núi
cao địa thế hiểm trở của vùng núi Hoa Lư để đóng đô và phòng thủ. Nhưng giờ đây
khí Lý Công Uẩn lên ngôi, vận hội đất nước đã thay đổi, đất nước đã đủ mạnh để sánh
ngang hàng với phương Bắc điều cần thiết lúc này là đẩy mạnh kinh tế phát triển, xây dựng cuộc sống thịnh
vượng ấm no cho nhân dân. Trước yêu cầu của thời kì mới, một nhà lãnh đạo tài
bao cần có những quyết sách lớn để dọn đường cho những kế hoạch nhỏ và chuyện dời
đô của Lý Công Uẩn đã là một quyết sách như vậy.
Với “Chiếu dời đô” Lý Công Uẩn đã hoàn tất trọn ven công việc của một ‘tổng công trình sư”, ông hiểu
được tầm quan trọng của một kinh đô. Tầm nhìn của ông đủ sâu rộng, đủ chính xác
để nhìn thấy được ưu thế đặc biệt của thành Đại La. Đó là vị trí “ở vào nơi
trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi”, là phương hướng “đúng ngôi
Nam, Bắc, Đông, Tây”, là địa thế “dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn
vật cũng được phong phú tốt tươi”. Một vị vua có thể nhìn ra chừng ấy thuận lợi
của một vùng đất hẳn là một người am hiểu phong thủy, lịch sử địa lí và những
suy tính lâu dài về chính trị. Việc dời đô cũng xuất phát từ quan điểm “lấy dân
làm gốc, lấy lợi ích của trăm họ làm nền tảng quốc gia”. Một nhà lãnh đạo nắm
giữ vận mệnh đất nước trong tay, điều cần nhất chẳng nhẽ không phải là tấm lòng
ấy? Vai trò và công lao của Lí Công Uẩn đã được thực tế lịch sử chứng minh: kinh đô
Thăng Long sau 1000 năm Hà Nội đã trở thành thủ đô hòa bình của Việt Nam. Đất nước ta bước vào một
giai đoạn phát triển mới. Công lao của Lý Công Uẩn đã khẳng định rằng: tài năng và tấm
lòng của nhà lãnh đạo góp phần quyết định không nhỏ đến sự hưng thịnh hoặc suy
vong của một triều đại, một quốc gia. Một nhà lãnh đạo cừ khôi chính là ngọn đuốc
sáng soi đường cho quảng đại quần chúng.
Tấm lòng lo nghĩ cho nước
cho dân không chỉ day dứt trong tâm Hoàng Đế Thái Tổ mà còn được bộc lộ sâu sắc
ở vị danh tướng kiệt xuất đời Trần - Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Với "Hịch tướng
sĩ" vai trò to lớn của một nhà lãnh đạo càng được khẳng định nhưng trong một
hoàn cảnh khác, khi đất nước đang phải đối mặt với hiểm họa xâm lăng, vận mệnh
dân tộc nguy vong là một điều khó tránh khỏi. Trong hoàn cảnh này đòi hỏi vị chủ
tướng Trần Quốc Tuấn không chỉ mắt nhìn rõ thế trận, một tấm lòng âu lo việc nước mà còn cả
một bản lĩnh tập hợp lực lượng, động viên binh sĩ thu trăm quân về một mối, đánh
thức những người lính Đại Việt lúc này đang lơ là, mê muội. Lo lắng trước hiểm họa
đang tới gần và đau lòng vì sự thờ ơ của tướng sĩ, tác giả đã viết "Hịch tướng sĩ". Bài hịch
này vừa là một lời tổng động viên, vừa như một lời tỏ lòng “ Ta thường tới bữa
quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa…ta cũng vui lòng”.
Trong mọi cuộc đấu tranh yếu tố “nhân tâm” là điều quan trọng, lòng người đôi
khi quyết định tất cả. Hiểu được điều đó vị chủ tướng đã vạch ra trước mắt binh
sĩ của mình hai con đường, hoặc là nhà tan cửa nát khi đất nước suy vong, hoặc
là vinh hiển đời đời cùng chiến thắng của dân tộc. Điều đặc biệt trong bài hịch
là Trần Hưng Đạo không
hề tỏ ý ép buộc, ông vạch rõ hai con đường, còn sự lựa chọn thuộc về các binh
sĩ. Như thế tài văn của Hưng Đạo Vương đã giúp ông thu phục lòng người, cảm hóa
lòng quân để làm được điều “tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu
ngọt ngào”(Bình Ngô đại cáo). Trong thời chiến một dân tộc không chỉ đối mặt với
gươm đao súng đạn mà còn ở tầm ngắm của những thứ vũ khí ẩn nấp sau nhung lụa,
phải đối mặt với hầm chông của
quân thù được phủ lên bằng lớp cỏ non êm ái. Người lãnh đạo nắm được binh lực
trong tay, nếu không có ý chí thép tấm lòng son sẽ là người đầu tiên rơi xuống
hố sâu mà kẻ thù đào sẵn. Cũng như vậy quãng thời gian lâu dài giữa hai cuộc
kháng chiến chống Mông-Nguyên như một thứ thuốc độc làm hao mòn khí thế đấu
tranh, một cái bẫy vô hình lấy đi nhuệ khí của các chiến sĩ, một màng sương phủ
mờ quyết tâm chống giặc. Là một người cầm quân, Trần Quốc Tuấn đã dùng cả tấm lòng của
mình đánh tan màn sương tai họa ấy, góp phần không nhỏ làm nên tinh thần “ Sắt
thép” vang danh sử sách, biến niềm tin của họ trở thành sức mạnh “ Sát Thát”
đưa đến những thắng lợi, chiến công giòn giã:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt
quân thù
( Trần Quang Khải)
Chiến thắng ấy có công
lao không nhỏ của Hưng Đạo Vương. Vị chủ tướng Trần Quốc Tuấn chính là một hình ảnh tiêu
biểu cụ thể cho những phẩm chất mà một nhà lãnh đạo cần có trong thời chiến,
cũng là một minh chứng cho vai trò của một người ngồi ngôi cao đối với toàn
quân.
Như vậy qua “Chiếu dời đô” và
“Hịch tướng sĩ” có thể khẳng định rằng trong bất kể giai đoạn nào của đất nước, chiến
tranh hay hòa bình , người lãnh đạo luôn có một tầm quan trọng đặc biệt, có thể
tạo nên ảnh hưởng trực tiếp đến sự suy vong, hưng thịnh của một quốc gia. Một
tướng kém cỏi không thể tạo nên một đoàn quân tinh nhuệ, cũng như một đất nước
chỉ có thể trở nên hùng mạnh dưới sự dẫn dắt của một nhà lãnh đạo tài ba.
“Chiếu dời đô” hay “Hịch tướng sĩ” đều là
những chuyện của quá khứ, nhưng quá khứ ấy đã để lại cho hiện tại nhiều suy ngẫm.
Cộng đồng nào mà không cần có một thủ lĩnh tài ba, quốc gia nào mà không cần có
người đứng đầu biết nhìn xa trông rộng, có thực tại, có tấm lòng để cảm hóa được
những tấm lòng khác. Lịch sử Việt Nam tự hào về những nhà lãnh đạo cừ khôi như Lý Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn. Chỉ
mong sao bước đường tiếp theo của dân tộc có thể chứng kiến tài năng suất chúng
của những người nắm vân mệnh đất nước trong tay, để mơ ước của Lý Thái Tổ có thể
thành sự thật, nhìn thấy đất nước hóa rồng bay lên trong thế kỉ này.
Nguyễn Mỹ Trang
No comments:
Post a Comment