Đề
1:
“Nguyễn Du đã vạch ra cho mọi người thấy
những thủ phạm hung ác của cuộc đời, nhưng liền sau đó, ông lại lấy số kiếp,
nghiệp chướng để che lấp tội ác của chúng” (“Lịch sử văn học Việt Nam, tập 3”,
NXB Giáo dục).
Hãy phân tích “Truyện Kiều” của Nguyễn
Du để chứng minh.
Gợi
ý làm bài:
1.Khái
quát về “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, từ đó giới thiệu và trích dẫn nhận định
của đề:
“Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
“Truyện Kiều” được Nguyễn Du mở đầu bằng
những lời thơ thật tâm huyết như vậy. Và, với tinh thần nhân đạo cao quý đó,
trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã miêu tả thực trạng xã hội phong kiến thối
nát, tố cáo mạnh mẽ bọn thống trị đương thời và tỏ lòng thương yêu sâu sắc con
người bị chà đạp. Thế nhưng, do hạn chế về tư tưởng của thời đại, Nguyễn Du đã
không thể đề ra được hướng giải quyết những mâu thuẫn, bế tắc của xã hội. Hạn
chế đó thể hiện rõ khi Nguyễn Du giải thích cuộc đời đau khổ của Kiều là do số
kiếp, nghiệp chướng, mà thật ra là bởi chế độ mục nát đầy áp bức bất công. Cùng chung nhận định đó, sách “Lịch sử văn học Việt Nam, tập 3”, NXB Giáo dục
có viết: “Nguyễn Du đã vạch ra cho mọi
người thấy những thủ phạm hung ác của cuộc đời, nhưng liền sau đó, ông lại lấy
số kiếp, nghiệp chướng để che lấp tội ác của chúng”.
2.
Phân tích “Truyện Kiều” để chứng minh:
2
.1 Nguyễn Du đã vạch ra cho mọi người
thấy những thủ phạm hung ác của cuộc đời: (HS tham khảo mục 3.1 (Giá trị hiện
thực), ý b và c ở bài “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du)
-“Truyện
Kiều” là câu chuyện về cuộc đời nàng Kiều, người con gái có nhiều đức tính,
phẩm chất tốt đẹp xứng đáng được hưởng
một cuộc đời yên vui, hạnh phúc:
+
Kiều xuất thân từ một gia đình lương thiện, luôn giữ vững đạo lý cương thường
theo dòng nho gia (dẫn chứng).
+
Kiều là người con gái thông minh, tài sắc vẹn toàn (dẫn chứng).
+ Kiều rất giàu lòng thương người (dẫn
chứng).
+
Kiều thật trong sáng, hồn nhiên trong tình yêu nhưng cũng không thiếu can đảm,
sẵn sàng vượt qua những ràng buộc nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến (dẫn
chứng).
-
Thế nhưng, xã hội phong kiến tàn bạo đã vùi dập đời Kiều:
+Đang sống trong những giây phút đẹp đẽ nhất
của mối tình đầu thì gia đình gặp nguy biến “Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh, Rụng
rời khung dệt tan tành gói may, Đồ tế nhuyễn của riêng tây, Sạch sành sanh vét
cho đầy túi tham” , Kiều phải bán mình chuộc cha “Để lời thệ hải minh sơn, Làm
con trước phải đền ơn sinh thành”.
+Từ đó, cuộc đời nàng bắt đầu mười lăm năm lưu
lạc “Hết nạn nọ đến nạn kia, Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”, để rồi cuối
cùng vì quá đau khổ, nhục nhã và tuyệt vọng, Kiều đã trầm mình xuống sông Tiền
Đường tự vẫn “Trông vời trời nước mênh mông, Đem mình gieo xuống giữa dòng
trường giang”.
-Vậy
những ai đã gây ra số kiếp đoạn trường của nàng Kiều? Đó chính là những thủ
phạm hung ác của cuộc đời:
+Trước
hết là bọn quan lại: tên quan xử
kiện vụ án Vương viên ngoại, tên quan khác xử án vụ Thúc Ông kiện con, tên quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn
Hiến, kẻ đại diện cho triều đình (dẫn chứng).
+Dưới
quyền bọn quan lại như vậy, còn biết bao loại người xấu xa, “bạc ác tinh ma”
thi nhau hoành hành, tác oai tác quái đối với
những người dân lương thiện: Đó là vợ con bọn quan lại: mẹ con họ
Hoạn. Đó là là bọn buôn người hành
động một cách công khai: như Mã Giám Sinh, Tú Bà hoặc như Bạc Bà, Bạc Hạnh. Đó là bọn tay sai mặt người dạ thú sẵn
sàng thực hiện bất cứ hành động tàn ác nào miễn là có tiền: như Sở Khanh, như Khuyển, Ưng, hoặc như lũ sai
nha “đầu trâu mặt ngựa” (dẫn chứng) ,…
+Thêm nữa, ở xã hội đó, đồng tiền cũng trở
thành một thế lực tàn bạo: Đồng tiền tác hại đến cuộc sống yên lành và nhân
phẩm con người bị áp bức. Đồng tiền làm đảo điên cả công lý và xã hội (dẫn chứng).
* Trong
xã hội phong kiến, có rất nhiều người là nạn nhân đau khổ của những thủ phạm
hung ác kể trên ; thế nhưng trong số đó, Nguyễn Du đặc biệt xót thương những
người có tài có sắc. Chắc có lẽ theo Nguyễn Du, những người có tài có sắc
ấy là hình ảnh tập trung rất cao về những số kiếp bi đát của con người. Và, cuộc đời Thúy Kiều là một điển hình. Bởi,
Kiều có tất cả “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” trong xã hội phong kiến
ấy .
Thay vì giải thích nguyên nhân gây ra nỗi đau
khổ của Thúy Kiều là do “những thủ phạm
hung ác “của xã hội phong kiến mục nát, tàn bạo, bất nhân ấy, thế
nhưng Nguyễn Du lại lấy số kiếp, nghiệp
chướng để che lấp tội ác của chúng. Cụ thể:
-
Do bị quy định bởi thời đại lịch sử và ý thức hệ phong kiến, nên“Truyện Kiều”
không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định về tư tưởng, về quan điểm triết
học của xã hội phong kiến:
+Lời tiên đoán của một thầy tướng số về
cuộc đời Kiều, lời phẫn uất về cuộc đời mình củaThúy Kiều (dẫn chứng), … Tất cả đều là tiếng nói phát ngôn cho một hệ
thống triết lý bao che cho cường quyền phong kiến bằng cách quy kết mọi sự việc
trong cuộc đời vào một thế lực siêu hình
– thế lực thần quyền.
+Để
lý giải nguyên nhân đau khổ của cuộc đời Kiều, Nguyễn Du đã đi đến triết lý bi
quan, tiêu cực. Ông đã dùng thuyết “mệnh trời” của Nho giáo, thuyết “luân
hồi” và “nhân quả”của Phật giáo để lý giải các nguyên do nỗi khổ của đời Kiều,
như ngầm gián tiếp khuyên bảo con người chấp nhận số phận; hoặc cam chịu và tu tâm (dẫn chứng).
*
Xuất thân từ hàng ngũ giai cấp phong kiến
thống trị, nên Nguyễn Du không thể tránh khỏi những hạn chế tư tưởng nhất định
đó.
3.
Đánh giá chung:
“Truyện Kiều” là một bức tranh hiện thực rộng lớn về những đau khổ của con
người dưới chế độ phong kiến suy tàn. Tác phẩm cũng là tiếng kêu đoạn trường
của những người bị áp bức, thể hiện tấm lòng nhân đạo cao quý của Nguyễn
Du.”Truyện Kiều có những giá trị cao quý của nó, bởi qua tác phẩm, Nguyễn Du “đã vạch ra cho mọi
người thấy những thủ phạm hung ác của cuộc đời”, song vẫn còn những hạn chế tư
tưởng là “liền sau đó, ông lại lấy số kiếp, nghiệp chướng để che lấp tội ác của
chúng”. / Tuy vậy, những hạn chế tư tưởng số mệnh, nghiệp chướng ấy vẫn không hề làm giảm giá trị của tác phẩm
và vị thế của một thiên tài nghệ thuật và lòng rung động xót thương con người
của Nguyễn Du, một tâm hồn cao cả
]
Đề
2:
“Truyện Kiều là một tiếng kêu thương, một bản
tố cáo, một giấc mơ giải phóng của những con người bị quằn quại trong vũng lầy
phong kiến” (“Sơ khảo lịch sử văn học Việt Nam”-Hoài Thanh)
Hãy giải thích và chứng minh ý kiến trên.
Gợi
ý làm bài:
1.Khái
quát về “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, từ đó giới thiệu và trích dẫn nhận định
của đề:
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một kiệt
tác văn học. Từ khi ra đời đến nay, tác phẩm đã có nhiều người bình phẩm. / Đọc “Truyện Kiều”, ông Hoài Thanh có ý
kiến: “Truyện Kiều là một tiếng kêu
thương, một bản tố cáo, một giấc mơ giải phóng của những con người bị quằn quại
trong vũng lầy phong kiến”.
2.
Phân tích “Truyện Kiều” để chứng minh:
2.1
“Truyện Kiều” là một tiếng kêu thương:
-“Truyện Kiều là một tiếng kêu thương” là
cách nói rất hình ảnh về nỗi đau xót, đầy thương tâm trước cuộc đời và số phận
của nàng Kiều, người con gái có nhiều đức tính, phẩm chất tốt đẹp xứng đáng được hưởng một cuộc đời yên
vui, hạnh phúc:
+
Kiều xuất thân từ một gia đình lương thiện, luôn giữ vững đạo lý cương thường
theo dòng nho gia (dẫn chứng).
+
Kiều là người con gái thông minh, tài sắc vẹn toàn (dẫn chứng).
+ Kiều rất giàu lòng thương người (dẫn
chứng).
+
Kiều thật trong sáng, hồn nhiên trong tình yêu nhưng cũng không thiếu can đảm,
sẵn sàng vượt qua những ràng buộc nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến (dẫn
chứng).
-
Thế nhưng, xã hội phong kiến tàn bạo đã vùi dập đời Kiều:
+Đang sống trong những giây phút đẹp đẽ nhất
của mối tình đầu thì gia đình gặp nguy biến “Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh, Rụng
rời khung dệt tan tành gói may, Đồ tế nhuyễn của riêng tây, Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” , Kiều
phải bán mình chuộc cha “Để lời thệ hải minh sơn, Làm con trước phải đền ơn
sinh thành”.
+Từ đó, cuộc đời nàng bắt đầu mười lăm năm lưu
lạc “Hết nạn nọ đến nạn kia, Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”, để rồi cuối
cùng vì quá đau khổ, nhục nhã và tuyệt vọng, Kiều đã trầm mình xuống sông Tiền
Đường tự vẫn “Trông vời trời nước mênh mông, Đem mình gieo xuống giữa dòng
trường giang”./ Với những đức tính tốt
đẹp ấy, Kiều xứng đáng được hưởng một cuộc đời yên vui, hạnh phúc.
2.2
“Truyện Kiều” là một bản tố cáo :
- Nói “Truyện Kiều là một bản tố cáo” bởi “Truyện Kiều” đã vạch rõ bản
chất xấu xa, tàn ác, bất nhân của chế độ
phong kiến thời kỳ suy vong.
-Trong “Truyện Kiều”, có rất nhiều người
là nạn nhân đau khổ của cái xã hội tàn bạo, bất nhân ấy; thế nhưng trong số đó,
Nguyễn Du đặc biệt xót thương những người có tài có sắc. Chắc có lẽ theo Nguyễn Du, những người có tài có sắc ấy
là hình ảnh tập trung rất cao về những số kiếp bi đát của con người. Và, cuộc đời Thúy Kiều là một điển hình. Kiều có
tất cả “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” trong xã hội phong kiến ấy .
Vậy những ai đã gây ra số kiếp đoạn trường của nàng Kiều?
+Trước
hết là bọn quan lại: tên quan xử
kiện vụ án Vương viên ngoại, tên quan khác xử án vụ Thúc Ông kiện con, tên quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn
Hiến, kẻ đại diện cho triều đình (dẫn chứng).
+Dưới quyền bọn quan lại như vậy, còn biết
bao loại người xấu xa, “bạc ác tinh ma” thi nhau hoành hành, tác oai tác quái
đối với những người dân lương thiện:
Đó là vợ con bọn quan lại: mẹ con họ Hoạn.
Đó là là bọn buôn người hành động một cách công khai: như Mã Giám Sinh, Tú
Bà hoặc như Bạc Bà, Bạc Hạnh. Đó là
bọn tay sai mặt người dạ thú sẵn sàng thực hiện bất cứ hành động tàn ác nào
miễn là có tiền: như Sở Khanh, như
Khuyển, Ưng, hoặc như lũ sai nha “đầu trâu mặt ngựa” (dẫn chứng) ,…
+Thêm nữa, ở xã hội đó, đồng tiền cũng trở
thành một thế lực tàn bạo: Đồng tiền tác hại đến cuộc sống yên lành và nhân
phẩm con người bị áp bức. Đồng tiền làm đảo điên cả công lý và xã hội (dẫn chứng).
2.3
“Truyện Kiều” là một giấc mơ :
- Còn nói “Truyện Kiều là một giấc mơ”
vì “Truyện Kiều” thể hiện được những ước mong, khát vọng về tự do, về công lý
và về cuộc sống hạnh phúc của những con người lương thiện bị áp bức.
-Tình
yêu Kim Trọng – Thúy Kiều thể hiện khát vọng mãnh liệt về tự do yêu đương:
+ Lễ
giáo phong kiến khắc nghiệt chỉ cho phép con người có hôn nhân mà không quan
tâm đến tình yêu. Kiều bất chấp điều đó. Ngay lần đầu gặp Kim Trọng, nàng
đã để trái tim mình rung động với những ước muốn thầm kín mà tha thiết “Người
đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không”. Khi Kim Trọng tỏ
tình, nàng mạnh dạn nhận lời gắn bó và nàng đã thổ lộ tình yêu của mình qua
tiếng đàn đắm say. Sau này, suốt quãng đời lưu lạc, nàng vẫn luôn nhớ tới Kim
trọng với một tình yêu không hề thay đổi “Còn duyên may lại còn người, Còn vầng
trăng bạc còn lời nguyền xưa”.
+Kim
Trọng cũng xứng đáng với tình yêu của Kiều. Vì tương tư Kiều mà chàng quên
lãng cả việc học hành kinh sử để đến nỗi “Phòng văn hơi giá như đồng, Trúc se
ngọn thỏ tơ chùng phím loan”. Chàng đau đớn khi nghe tin Kiều bán mình cuộc cha
và lưu lạc giang hồ. Suốt 15 năm trôi qua, chàng vẫn không bao giờ nguôi quên
người tình xưa. Ngay khi đi làm quan, Kim Trọng vẫn sẵn sàng bỏ cả công danh
phú quý, dấn thân vào gian lao, nguy hiểm để mong tìm gặp Kiều “Rắp mong treo
ấn từ quan, Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng qua, Dấn mình trong áng can qua,
Vào sinh ra tử họa là thấy nhau”.
*** Có
thể nói, Kim-Kiều chống lại lễ giáo phong kiến bằng mối tình đẹp đẽ, thủy chung
của mình. Họ cho thấy sức mạnh của những con người khao khát tình yêu và tự do
hôn nhân.
- Ở
nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du không chỉ gửi gắm khát vọng tự do, mà cả khát vọng
về công lý:
+Trong xã hội phong kiến hầu như không
có khe hở nào cho tự do, hầu như tất cả đều bị bóp nghẹt bởi bàn tay độc ác của
bọn vua quan, thì Từ Hải chính là hình
mẫu lý tưởng về một con người tự do. Từ khinh bỉ bọn vào luồn ra cúi để
tranh nhau hai chữ công hầu “Ao xiêm ràng buộc chi nhau, Vào luồn ra cúi công
hầu mà chi”. Từ không hề biết đến hai chữ “trung quân”, Từ thích sống và đã
sống một cuộc đời thật tự do và ngang tàng “Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Dọc
ngang nào biết trên đầu có ai”.
+Quan
niệm công lý của Từ Hải chính là quan
niệm công lý của nhân dân. Từ không coi Kiều là một gái giang hồ. Từ đối xử
với Kiều bằng một mối tình thắm thiết trước sau như một. Người yêu thương
Kiều thì có nhiều, nhưng chỉ có Từ mới
đủ sức mạnh giúp Kiều báo ân báo oán. Chỉ một cơn giận sấm sét của Từ là tất cả
bọn người “bạc ác tinh ma” phải chịu cảnh “máu rơi thịt nát tan tành”.
* Đúng
là qua hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du đã thể hiện một cách tập trung ước mơ mãnh liệt về tự do và
công lý của nhân dân trong một thế kỷ được mệnh danh là thế kỷ nông dân khởi
nghĩa.
-
“Truyện Kiều” kết thúc bằng sự đoàn tụ của gia đình Kiều và sự tái hợp của mối
tình Kim-Kiều ở cuối tác phẩm phải chăng đây cũng chính là sự phản
ánh ước mơ, khát vọng về một cuộc sống ấm êm, hạnh phúc của những người dân
lương thiện mà Nguyễn Du muốn gửi gắm qua tác phẩm?
3.
Đánh giá chung:
Đọc “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, chắc
chắn chúng ta sẽ tán thành ý kiến trên của ông Hoài Thanh./ Có lẽ bởi “Truyện Kiều là một tiếng kêu
thương, một bản tố cáo, một giấc mơ giải phóng của những con người bị quằn quại
trong vũng lầy phong kiến” đó mới là nội dung tư tưởng đích thực của “Truyện
Kiều” . Đồng thời, cũng có lẽ bởi ý kiến của ông Hoài Thanh đêm lại cho chúng
ta thêm một phương hướng quý báu để tìm hiểu và đánh giá giá trị của kiệt tác
bất hủ này .Có thể mượn lời thơ của Tố Hữu khẳng định tài năng của Nguyễn Du và
giá trị “Truyện Kiều” của ông:
“Tiếng
thơ ai động đất trời,
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu,
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
(Kính
gửi cụ Nguyễn Du)
]
Đề
3:
“Trong hơn 150 năm, “Truyện Kiều” tuy chưa là
tiếng kèn giục xung trận, nhưng đã là nơi tập hợp tất cả những đau khổ, uất ức,
căm hờn cũng như nơi đoàn kết muôn mộng tưởng, ước mơ, khát vọng” (“Bản cáo trạng
cuối cùng trong “Truyện Kiều” “ của Xuân Diệu).
Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên dựa vào nội
dung “Truyện Kiều” và những đoạn trích tác phẩm đã học và đọc thêm.
Gợi
ý làm bài:
1.Khái
quát về “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, từ đó giới thiệu và trích dẫn nhận định
của đề:
Kết thúc bài thơ “”Độc Tiểu Thanh ký”,
Nguyễn Du viết: “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khốc Tố
Như”(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, Người đời ai khóc Tố Như chăng?”. Hai câu
thơ là lời trăn trối, băn khoăn, thể hiện nỗi cô đơn đến tột cùng của Nguyễn
Du, ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX. Đến nay, chưa đầy 300 năm, thế hệ chúng ta, lớp con cháu của Nguyễn Du đã
thấu hiểu nỗi niềm đồng cảm và đánh giá rất cao thiên tài nghệ thuật và tấm lòng
nhân đạo cao cả được ông gửi gắm qua sáng tác của mình, trong đó đặc biệt là
“Truyện Kiều”./ Cùng chung nhận định ấy, nhân dịp kỷ niệm 200 năm năm sinh
Nguỹen Du, trong “Bản cáo trạng cuối cùng trong “Truyện Kiều”, Xuân
Diệu, nhà thơ nổi tiếng trong nền thi ca hiện đại Việt Nam viết: “Trong
hơn 150 năm, “Truyện Kiều” tuy chưa là tiếng kèn giục xung trận, nhưng đã là
nơi tập hợp tất cả những đau khổ, uất ức, căm hờn cũng như nơi đoàn kết muôn
mộng tưởng, ước mơ, khát vọng”.
2.
Phân tích “Truyện Kiều” để chứng minh:
2.1
“Trong hơn 150 năm, “Truyện Kiều” chưa
là tiếng kèn giục xung trận:
-Đúng là từ khi ra đời đến nay, ít ra
cũng đã hơn 150 năm, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du chưa phải là “tiếng kèn giục xung trận”. Bởi, “Truyện
Kiều” chỉ là một tác phẩm văn học, một công trình nghệ thuật được xây dựng bằng
chất liệu là ngôn từ.
-Tuy nhiên, tài năng sáng tạo nghệ thuật
và tấm lòng nhân đạo cao ca của Nguyễn Du đã làm nên điều kỳ diệu đó. Đọc
“Truyện Kiều”, chúng ta thấy không có dòng thơ nào trực tiếp kêu gọi, giục giã
xung trận để đấu tranh cho tự do, cho công lý và hạnh phúc.Thế nhưng, chính từ
cuộc đời hẩm hiu và số phận bất hạnh của các nhận vật, từ nỗi khổ đau và ước
mong, khát vọng của những con người lương thiện, mà Thúy Kiều là một điển hình,
“Truyện Kiều” không chỉ đã tạo nên nỗi
căm giận ngút ngàn đối với xã hội phong kiến tàn ác, bất nhân, mà còn gây ra ở
mỗi người đọc chúng ta niềm xúc động, đồng cảm sâu sắc với những ước mơ, khát
vọng về tự do, về công lý và về cuộc sống hạnh phúc của tất cả con người lương
thiện.
2.2 Nhưng
“Truyện Kiều” đã là nơi tập hợp tất cả những đau khổ, uất ức, căm hờn cũng như
nơi đoàn kết muôn mộng tưởng, ước mơ, khát vọng”:
a. Trước
hết, “Truyện Kiều” đã là nơi tập hợp
tất cả những đau khổ, uất ức, căm hờn:
-Trong
“Truyện Kiều”, có rất nhiều người là nạn nhân đau khổ của cái xã hội phong
kiến tàn bạo, bất nhân; thế nhưng
trong số đó, Nguyễn Du đặc biệt xót thương những người có tài có sắc. Chắc có
lẽ theo Nguyễn Du, những người có tài có sắc ấy là hình ảnh tập trung rất cao
về những số kiếp bi đát của con người. Và, cuộc
đời Thúy Kiều là một điển hình. Kiều có tất cả “Những điều trông thấy mà đau
đớn lòng”, là “nơi tập hợp tất cả những đau khổ uất ức, căm hờn” trong xã hội phong kiến ấy .
-“Truyện
Kiều” là câu chuyện về cuộc đời nàng Kiều, người con gái có nhiều đức tính,
phẩm chất tốt đẹp xứng đáng được hưởng
một cuộc đời yên vui, hạnh phúc:
+
Kiều xuất thân từ một gia đình lương thiện, luôn giữ vững đạo lý cương thường
theo dòng nho gia (dẫn chứng).
+
Kiều là người con gái thông minh, tài sắc vẹn toàn (dẫn chứng).
+ Kiều rất giàu lòng thương người (dẫn
chứng).
+
Kiều thật trong sáng, hồn nhiên trong tình yêu nhưng cũng không thiếu can đảm,
sẵn sàng vượt qua những ràng buộc nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến (dẫn chứng).
-
Thế nhưng, xã hội phong kiến tàn bạo đã vùi dập đời Kiều:
+Đang sống trong những giây phút đẹp đẽ nhất
của mối tình đầu thì gia đình gặp nguy biến “Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh, Rụng
rời khung dệt tan tành gói may, Đồ tế nhuyễn của riêng tây, Sạch sành sanh vét
cho đầy túi tham” , Kiều phải bán mình chuộc cha “Để lời thệ hải minh sơn, Làm
con trước phải đền ơn sinh thành”.
+Từ đó, cuộc đời nàng bắt đầu mười lăm năm lưu
lạc “Hết nạn nọ đến nạn kia, Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”, để rồi cuối
cùng vì quá đau khổ, nhục nhã và tuyệt vọng, Kiều đã trầm mình xuống sông Tiền
Đường tự vẫn “Trông vời trời nước mênh mông, Đem mình gieo xuống giữa dòng
trường giang”.
-Vậy
những ai đã gây ra số kiếp đoạn trường của nàng Kiều? Đó chính là những thủ
phạm hung ác của cuộc đời:
+Trước hết là bọn quan lại: tên quan xử kiện vụ án Vương viên ngoại, tên
quan khác xử án vụ Thúc Ông kiện con, tên
quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến, kẻ đại diện cho triều đình (dẫn chứng).
+Dưới quyền bọn quan lại như vậy, còn biết
bao loại người xấu xa, “bạc ác tinh ma” thi nhau hoành hành, tác oai tác quái
đối với những người dân lương thiện:
Đó là vợ con bọn quan lại: mẹ con họ Hoạn.
Đó là là bọn buôn người hành động một cách công khai: như Mã Giám Sinh, Tú
Bà hoặc như Bạc Bà, Bạc Hạnh. Đó là
bọn tay sai mặt người dạ thú sẵn sàng thực hiện bất cứ hành động tàn ác nào
miễn là có tiền: như Sở Khanh, như
Khuyển, Ưng, hoặc như lũ sai nha “đầu trâu mặt ngựa” (dẫn chứng) ,…
+Thêm nữa, ở xã hội đó, đồng tiền cũng trở
thành một thế lực tàn bạo: Đồng tiền tác hại đến cuộc sống yên lành và nhân
phẩm con người bị áp bức. Đồng tiền làm đảo điên cả công lý và xã hội (dẫn chứng).
b.Và “Truyện
Kiều” đã là nơi đoàn kết muôn mộng tưởng, ước mơ, khát vọng:
-Trong “Truyện Kiều”, có rất nhiều người
là nạn nhân đau khổ của cái xã hội phong kiến
tàn bạo, bất nhân. Cuộc đời Thúy Kiều là một điển hình. Bởi, Kiều có tất
cả “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, là “nơi tập hợp tất cả những đau
khổ uất ức, căm hờn” trong xã hội phong kiến ấy. Đồng thời, cũng chính Kiều và
rộng hơn là Kim Trọng, là Từ Hải, là gia đình Vương viên ngoại, … đã góp phần
thể hiện được những ước mong, khát vọng về tự do, về công lý và về cuộc sống
hạnh phúc của những con người lương thiện bị áp bức. Nói cách khác, “Truyện Kiều” đã là nơi đoàn kết muôn mộng
tưởng, ước mơ, khát vọng.
-Tình
yêu Kim Trọng – Thúy Kiều thể hiện khát vọng mãnh liệt về tự do yêu đương:
+ Lễ
giáo phong kiến khắc nghiệt chỉ cho phép con người có hôn nhân mà không quan
tâm đến tình yêu. Kiều bất chấp điều đó. Ngay lần đầu gặp Kim Trọng, nàng
đã để trái tim mình rung động với những ước muốn thầm kín mà tha thiết “Người
đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không”. Khi Kim Trọng tỏ
tình, nàng mạnh dạn nhận lời gắn bó và nàng đã thổ lộ tình yêu của mình qua
tiếng đàn đắm say. Sau này, suốt quãng đời lưu lạc, nàng vẫn luôn nhớ tới Kim
trọng với một tình yêu không hề thay đổi “Còn duyên may lại còn người, Còn vầng
trăng bạc còn lời nguyền xưa”.
+Kim
Trọng cũng xứng đáng với tình yêu của Kiều. Vì tương tư Kiều mà chàng quên
lãng cả việc học hành kinh sử để đến nỗi “Phòng văn hơi giá như đồng, Trúc se
ngọn thỏ tơ chùng phím loan”. Chàng đau đớn khi nghe tin Kiều bán mình cuộc cha
và lưu lạc giang hồ. Suốt 15 năm trôi qua, chàng vẫn không bao giờ nguôi quên
người tình xưa. Ngay khi đi làm quan, Kim Trọng vẫn sẵn sàng bỏ cả công danh
phú quý, dấn thân vào gian lao, nguy hiểm để mong tìm gặp Kiều “Rắp mong treo
ấn từ quan, Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng qua, Dấn mình trong áng can qua,
Vào sinh ra tử họa là thấy nhau”.
* Có
thể nói, Kim-Kiều chống lại lễ giáo phong kiến bằng mối tình đẹp đẽ, thủy chung
của mình. Họ cho thấy sức mạnh của những con người khao khát tình yêu và tự do
hôn nhân.
- Ở
nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du không chỉ gửi gắm khát vọng tự do, mà cả khát vọng
về công lý:
+Trong xã hội phong kiến hầu như không
có khe hở nào cho tự do, hầu như tất cả đều bị bóp nghẹt bởi bàn tay độc ác của
bọn vua quan, thì Từ Hải chính là hình
mẫu lý tưởng về một con người tự do. Từ khinh bỉ bọn vào luồn ra cúi để
tranh nhau hai chữ công hầu “Ao xiêm ràng buộc chi nhau, Vào luồn ra cúi công
hầu mà chi”. Từ không hề biết đến hai chữ “trung quân”, Từ thích sống và đã
sống một cuộc đời thật tự do và ngang tàng “Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Dọc
ngang nào biết trên đầu có ai”.
+Quan
niệm công lý của Từ Hải chính là quan
niệm công lý của nhân dân. Từ không coi Kiều là một gái giang hồ. Từ đối xử
với Kiều bằng một mối tình thắm thiết trước sau như một. Người yêu thương Kiều
thì có nhiều, nhưng chỉ có Từ mới đủ sức mạnh giúp Kiều báo ân báo oán. Chỉ một
cơn giận sấm sét của Từ là tất cả bọn người “bạc ác tinh ma” phải chịu cảnh
“máu rơi thịt nát tan tành”.
* Đúng
là qua hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du đã thể hiện một cách tập trung ước mơ mãnh liệt về tự do và
công lý của nhân dân trong một thế kỷ được mệnh danh là thế kỷ nông dân khởi
nghĩa.
-
“Truyện Kiều” kết thúc bằng sự đoàn tụ của gia đình Kiều và sự tái hợp của mối
tình Kim-Kiều ở cuối tác phẩm phải chăng đây cũng chính là sự phản
ánh ước mơ, khát vọng về một cuộc sống ấm êm, hạnh phúc của những người dân
lương thiện mà Nguyễn Du muốn gửi gắm qua tác phẩm?
3.
Đánh giá chung:
Trong bài thơ “Kính gửi cụ Nguyễn Du, Tố Hữu
đã nhân danh những con người của thời đại hôm nay mà đánh giá rất cao tấm lòng
nhân đạo của Nguyễn Du gửi gắm trong “Truyện Kiều”:
“Trải
bao gió dập sóng dồi,
Tấm lòng
thơ vẫn tình đời thiết tha”
Nguyễn Du mãi mãi xứng đáng là thiên tài nghệ thuật và “Truyện Kiều” của ông mãi mãi
là một kiệt tác bất hủ trong kho tàng văn học dân tộc. Bởi “Trong hơn 150 năm, “Truyện Kiều” tuy chưa là
tiếng kèn giục xung trận, nhưng đã là nơi tập hợp tất cả những đau khổ, uất ức,
căm hờn cũng như nơi đoàn kết muôn mộng tưởng, ước mơ, khát vọng”.
]
Đề
4:
“Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lắm truân chuyên”
(“Đọc Kiều”-Chế Lan Viên)
Hãy
chứng minh Thúy Kiều tài sắc mà lắm truân chuyên. Từ đó cho biết ý kiến của em
về hai câu thơ trên.
Gợi
ý làm bài:
1.Khái
quát về “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, từ đó giới thiệu và trích dẫn 2 câu thơ
của Chế Lan Viên:
“Truyện Kiều” là truyện Nôm tiêu biểu của văn
học trung đại Việt Nam, là một kiệt tác của văn học nước nhà. Nó không chỉ là
kết quả sáng tạo của một thiên tài, mà còn là điểm hội tụ của mấy thế kỷ văn
học. Từ khi tác phẩm ra đời đến nay, “Truyện Kiều” đã được lưu truyền rộng rãi
và có sức chinh phục lớn đối với mọi tầng lớp độc giả.
Đọc “Truyện Kiều”, mỗi người có những nhận xét
và bình phẩm khác nhau./ Riêng Chế Lan Viên, nhà thơ nổi tiếng của thi ca hiện
đại Việt Nam, có viết:
“Chạnh
thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà
lắm truân chuyên”
(Đọc Kiều)
2.
Phân tích “Truyện Kiều” để chứng minh và bình luận ý 2 câu thơ của Chế Lan
Viên:
a.
Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” là một cô
gái đạt đến độ tuyệt vời về “sắc tài”:
Để miêu
tả “sắc tài” của nàng Kiều, ngòi bút Nguyễn
Du đã khái quát trong sự so sánh với Thúy Vân:
“Kiều
càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Thúy
Vân đã đẹp rồi, nhưng so với em Vân, vẻ đẹp của Kiều hơn hẳn. Kiều đẹp một
cách “sắc sảo mặn mà”. Nghĩa là Kiều không chỉ
đơn thuần là đẹp, mà vẻ đẹp của Kiều còn là đẹp của sự “sắc sảo” về trí tuệ, đẹp ở sự “mặn mà” của
tình cảm. / Và cũng như vậy, Thúy Vân đã tài
rồi, nhưng so với em Vân, tài của Kiều còn có “phần hơn” hẳn.
* Hai chị em Kiều và Vân quả là rất đẹp,
tuy “Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”, nhưng Thúy Kiều đẹp và có tài hơn
Thúy Vân.
+Trước
hết là nói về “sắc” của Kiều. Như để minh họa cho vẻ đẹp ấy của nàng Kiều,
Nguyễn Du lại trực tiếp miêu tả một cách ước lệ trong sự đối sánh với thiên
nhiên:
“Làn
thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Tác giả chỉ tập trung vào đôi mắt, bởi
đôi mắt là “cửa sổ của tâm hồn”. Đôi mắt Kiều đẹp, trong sáng long lanh như làn
nước mùa thu; đôi lông mày Kiều đẹp thanh thoát như nét núi mùa xuân. Cô Kiều
hiện lên với vẻ đẹp đến mức hoa phải ghen vì không thắm bằng, liễu phải hờn vì
không xanh bằng.
Và, để khẳng định thêm cái “sắc” tuyệt
đỉnh của Kiều, Nguyễn Du còn viết thêm:
“Một
hai nghiêng nước nghiêng thành”
Đúng là sắc đẹp của Kiều hiếm có và hiếm
thấy “nghiêng nước”, “nghiêng thành”.
+Thế
nhưng, tài năng Kiều còn được nhân đôi:
“ Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”
Cách Nguyễn Du tả tài năng của Kiều cũng thật
độc đáo. Khác với cách tả Thúy Vân, miêu tả nàng Kiều, nhà thơ chỉ dành có ba
câu gợi tả về nhan sắc, nhưng phải dùng đến nhiều câu tả về tài năng. Nàng Kiều
là một cô gái thông minh và có tài:
“Thông
minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi
họa, đủ mùi ca ngâm
Cung
thương lầu bậc ngũ âm
Nghề
riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc
nhà tay lựa nên chương
Một
thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Theo quan niệm thẩm mỹ phong kiến, một
người con gái tài năng phải giỏi cả cầm-kỳ-thi-họa. Kiều đã đạt đến mức lý
tưởng ấy. Chỉ riêng tài thơ của nàng cũng đã làm nhiều người khâm phục. Chẳng
hạn, lúc đi tảo mộ “Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần”, hay khi buộc phải cầm bút
đề thơ trước cửa quan liền được khen ngợi “Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân”/
Đặc biệt, tài đàn của nàng đã là “nghề riêng”, tức là sở trường, năng khiếu; và
vượt lên trên mọi người khác “ăn đứt hồ cầm một trương”./ Kiều không chỉ hiểu
biết âm nhạc, mà còn là một nhạc sĩ “tay lựa nên chương”, lại là một nhạc sĩ có một tâm hồn, bởi cung đàn bạc mệnh do Kiều
sáng tác chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm “Một
thiên bạc mệnh lại càng não nhân”.
b. Thế nhưng, nếu nói đến Thúy Kiều mà
Chế Lan Viên chỉ đề cập độ tuyệt vời về “sắc tài” không thôi cũng chưa đủ. Bởi,
qua ngòi bút của Nguyễn Du,Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” là một cô gái đạt đến
đỉnh cao của sự vẹn toàn và rất lý tưởng:
+Thúy
Kiều vốn xuất thân từ một gia đình
lương thiện, luôn giữ vững đạo lý cương thường theo dòng nho gia: “Có nhà
viên ngoài họ Vương, Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung, Một trai con thứ
rốt lòng, Vương Quan là chữ nối dòng nho gia, Đầu lòng hai ả tố nga, Thúy Kiều
là chị em là Thúy Vân”.
+Kiều
rất giàu lòng thương người: trong lần đi Hội Đạp Thanh, chỉ một nấm mồ vô
chủ và nghe Vương Quan kể về cuộc đời Đạm Tiên bạc mệnh, xấu số “Sống làm vợ
khắp người ta, Hại thay thác xuống làm ma không chồng” cũng khiến
nàng “Lòng đâu sẵn mối thương tâm, Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa”.
+Kiều
thật trong sáng, hồn nhiên trong tình yêu nhưng cũng không thiếu can đảm, sẵn
sàng vượt qua những ràng buộc nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến:“Xăm xăm
băng lối vườn khuya một mình” để đến với Kim Trọng. Kiều yêu tha thiết và thủy
chung, tuy vậy khi cần nàng biết đặt chữ tình sang một bên để trước hết làm
tròn phận sự của một người con hiếu thảo “Để lời thệ hải minh sơn, Làm con
trước phải đền ơn sinh thành”.
* Với
những đức tính, phẩm chất tốt đẹp ấy, Kiều xứng đáng được hưởng một cuộc đời
yên vui, hạnh phúc.
c.Và, cuộc đời Thúy Kiều trong “Truyện Kiều”lại
lắm truân chuyên:
-Có
sắc có tài, thế nhưng xã hội phong
kiến tàn bạo đã vùi dập đời Kiều.
+Đang sống trong những giây phút đẹp đẽ nhất
của mối tình đầu thì gia đình gặp nguy biến “Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh, Rụng
rời khung dệt tan tành gói may, Đồ tế nhuyễn của riêng tây, Sạch sành sanh vét
cho đầy túi tham” , Kiều phải bán mình chuộc cha “Để lời thệ hải minh sơn, Làm
con trước phải đền ơn sinh thành”.
+Từ đó, cuộc đời nàng bắt đầu mười lăm năm lưu
lạc “Hết nạn nọ đến nạn kia, Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”, để rồi cuối
cùng vì quá đau khổ, nhục nhã và tuyệt vọng, Kiều đã trầm mình xuống sông Tiền
Đường tự vẫn “Trông vời trời nước mênh mông, Đem mình gieo xuống giữa dòng
trường giang”.
-Vậy
những ai đã gây ra số kiếp đoạn trường của nàng Kiều? Đó chính là những thủ
phạm hung ác của cuộc đời:
+Trước hết là bọn quan lại: tên quan xử kiện vụ án Vương viên ngoại, tên
quan khác xử án vụ Thúc Ông kiện con, tên
quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến, kẻ đại diện cho triều đình (dẫn chứng).
+Dưới quyền bọn quan lại như vậy, còn biết
bao loại người xấu xa, “bạc ác tinh ma” thi nhau hoành hành, tác oai tác quái
đối với những người dân lương thiện:
Đó là vợ con bọn quan lại: mẹ con họ Hoạn.
Đó là là bọn buôn người hành động một cách công khai: như Mã Giám Sinh, Tú
Bà hoặc như Bạc Bà, Bạc Hạnh. Đó là
bọn tay sai mặt người dạ thú sẵn sàng thực hiện bất cứ hành động tàn ác nào
miễn là có tiền: như Sở Khanh, như
Khuyển, Ưng, hoặc như lũ sai nha “đầu trâu mặt ngựa” (dẫn chứng) ,…
+Thêm nữa, ở xã hội đó, đồng tiền cũng trở
thành một thế lực tàn bạo: Đồng tiền tác hại đến cuộc sống yên lành và nhân
phẩm con người bị áp bức. Đồng tiền làm đảo điên cả công lý và xã hội (dẫn chứng).
* Cuộc
đời cô Kiều quả đúng là “lắm truân
chuyên”.
d.
Cuộc đời cô Kiều được ví như đời dân tộc: (HS có thể bình
luận những hướng khác nhau. Dưới đây chỉ là gợi ý)
-Ý kiến Chế Lan Viên là đúng, tuy vậy,
cách dùng hình ảnh về cuộc đời một cô gái “sắc tài” vẹn toàn để liên tưởng so
sánh với “đời dân tộc” Việt Nam là chưa tương đồng về đối tượng so sánh.
-Thế nhưng, chính thái độ, tấm lòng
nhiều xót thương, đồng cảm với thân phận một con người, rộng hơn là một dân tộc
của Chế Lan Viên đã chứng tỏ được tấm lòng yêu thương con người, yêu quê hương,
dân tộc của ông.
-Ngày nay, lịch sử đã sang trang, những
“cô Kiều mới” đã vươn lên, được tự do phô diễn sắc đẹp và tài năng mà không gặp
một trở lực nào (dẫn chứng). Và, đất
nước ta đã hoàn toàn đổi mới, dân tộc
ta đã và đang khẳng định vị trí của mình
trên trường quốc tế (dẫn chứng). Dù trước mắt, còn nhiều khó khăn, nhưng với
truyền thống của dân tộc, với sự lãnh đạo của Đảng, nhất định chúng ta sẽ vượt
qua mọi nỗi “truân chuyên” để hưởng được niềm sung sướng, vinh quang,… như cảnh
Kiều đoàn tụ ở phần kết thúc của “Truyện Kiều”.
3.
Đánh giá chung:
Thúy Kiều “Sắc tài sao mà lắm truân
chuyên”. Nguyên nhân do chế độ phong kiến thời mục ruỗng suy vong thật là tàn
ác, bất nhân. Cảm thương cuộc đời và số phận cô Kiều, nạn nhân của xã hội phong
kiến ấy, Chế Lan Viên đã so sánh với “đời dân tộc” Việt nam ta. Tuy chưa tương
đồng, nhưng đây là một liên tưởng thật bất ngờ, thú vị. / Hai câu thơ giúp ta
biết về thái độ, tấm lòng nhiều xót thương với thân phận một con người, rộng
hơn là một dân tộc của Chế Lan Viên, đồng thời hiểu thêm về nhân vật Thúy Kiều
nói riêng, về “Truyện Kiều” nói chung.
]
Đề 5:Tìm hiểu thân phận người phụ nữ trong “Truyện Kiều”
của Nguyễn Du.
Tìm hiểu đề:
-Về nội dung: Thân phận người phụ nữ
được Nguyễn Du thể hiện trong “Truyện Kiều”.
-Về hình thức: Sử dụng tổng hợp các thao
tác: phân tích, chứng minh, bình luận.
Những ý cơ bản cần có trong bài làm: (Dành luyện cho HS giỏi văn)
1. Tại sao thân phận người phụ nữ lại
trở thành đề tài trung tâm của văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế
kỷ XIX?
2. Thân phận người phụ nữ trong “Truyện
Kiều” có gì khác với thân phận của những người phụ nữ trong các tác phẩm khác
cùng thời không?
-Chinh
phụ ngâm (Đặng Trần Côn-Đoàn Thị
Điểm): nỗi sầu nhớ của người phụ nữ
có chồng đi chinh chiến.
-Cung
oán ngâm (Nguyễn Gia Thiều): cuộc sống đau khổ, cô độc của người phụ nữ
trong chốn cung cấm.
-Thơ
Hồ Xuân Hương: khát vọng vượt lên số phận phụ thuộc, bấp bênh của người làm
lẽ và người phụ nữ.
-Truyện Kiều (Nguyễn Du): Số phận người
phụ nữ gắn liền với sự thăng trầm của xã hội. Người phụ nữ trong “Truyện Kiều”
có cuộc sống bấp bênh, trôi nổi nhưng họ luôn có ý thức vẫy vùng để thoát mình
ra khỏi dòng xoáy của các thế lực vô hình và hữu hình.
3. Thân phận người phụ nữ trong “Truyện
Kiều” như thế nào?
- Thúy Vân: người phụ nữ của lễ giáo,
luôn biết cam chịu với những gì cuộc đời gán ghép cho mình.
-Đạm Tiên: kiếp đời ngắn ngủi của một kỹ
nữ. Với nhân vật này, Nguyễn Du còn nhận ra sự phũ phàng của người đời đối với
người bạc mệnh: “Ay mồ vô chủ ai mà viếng thăm”.
-Thúy Kiều: tài hoa nhưng bạc mệnh.
Nguyễn Du đã thấy sức phản kháng mạnh mẽ và nghị lực vươn lên chống chọi với
định mệnh không ngừng của người phụ nữ. Điều đó thể hiện khát vọng tình yêu và
hạnh phúc của họ. Qua nhận vật Thúy Kiều, người ta nhận thấy được những số phận
khác nhau:
+Số phận của người phụ nữ tài hoa.
+Số phận của gái lầu xanh.
+Số phận của người phụ nữ làm vợ lẽ.
+Số phận của người phụ nữ có chồng là
người anh hùng trong xã hội loạn lạc.
4.Lý giải tại sao Nguyễn Du nhận thức về
thân phận người phụ nữ đầy đủ như vậy?
5. Nhận thức của Nguyễn Du về nguyên
nhân gây nên nỗi đoạn trường của người phụ nữ?
No comments:
Post a Comment