Friday, July 20, 2018

Dù bạn là linh dương hay sư tử, bạn vẫn phải chạy


Câu chuyện đầu tiên tôi kể bạn nghe, là câu chuyện ở đất nước Châu Phi. 
“Mỗi sáng ở Châu Phi, một con linh dương thức dậy. Nó biết rằng nó phải chạy nhanh hơn con sư tử nhanh nhất nếu không muốn bị giết.
Mỗi sáng, một con sư tử thức dậy, nó biết nó phải chạy nhanh hơn con linh dương chậm nhất hoặc nó sẽ bị chết đói.
Điều quan trọng không phải ở chỗ bạn là sư tử hay linh dương. Khi Mặt Trời mọc, bạn hãy bắt đầu chạy.”

Cảm nhận của bạn khi nghe xong câu chuyện này là gì? Tôi thì đã suy nghĩ rất nhiều. Và càng nghĩ, càng hiểu, tôi lại càng thấm hơn về những quy luật ở đời.

Thứ nhất, đó là quy luật sinh tồn. Đọc 2 câu đầu tiên, ta thấy hình ảnh con linh dương yếu đuối đang cố chống cự từng ngày, từng ngày với tử thần. Ta những tưởng kẻ yếu thế phải cố gắng để sống sót. Nhưng đọc 2 câu tiếp theo, bắt gặp hình ảnh con sư tử ngày ngày thức giấc với nỗi lo sống – chết, ta hiểu ngay cả kẻ mạnh nhất cũng phải nỗ lực không ngừng để tránh bị huỷ diệt. Quy luật sinh tồn không chừa ai cả. Kẻ giàu, người nghèo, ai cũng phải “chạy”. Trí thức, công nhân, địa chủ, nô lệ, không ai dám ngơi nghỉ nếu không muốn bị tụt hậu và bỏ quên trong vòng xoáy cuộc sống vốn dĩ đã ngặt nghèo.

Mà chạy, đâu phải chạy lung tung, chạy vô tội vạ được. Ai cũng vậy thôi, ở đời phải sống có mục đích, có mục tiêu. Mục tiêu của con linh dương là “chạy nhanh hơn con sư tử nhanh nhất”. Điều con sư tử muốn đạt được là “chạy nhanh hơn con linh dương chậm nhất”. Mục tiêu của bạn là kiếm thật nhiều tiền. Mục tiêu của tôi đơn giản là được sống với chính mình. Đừng sống chới với không mục đích, như thế cuộc sống của bạn lúc nào cũng sẽ chênh vênh, trôi nổi, không biết về đâu và chẳng biết bản thân đang cố gắng vì điều gì.

Thứ hai, đó là quy luật đường đua. Đường đua là nơi ta phải chạy không ngừng, chạy đến khi cán đích hoặc không còn đủ sức mà chạy nữa. Nếu bạn đã xem bộ phim “Three Idiots”, bạn sẽ nhớ một bài học mà những sinh viên tại Học viện Kĩ thuật đó được dạy. Đại loại là: Cuộc đời là một đường đua, chỉ kẻ đứng đầu mới được nhớ đến. Vì thế, để tồn tại, phải đè bẹp những đối thủ khác. Triết lý đó đôi khi quá vị kỉ và tàn nhẫn, nhưng suy cho cùng nó không hề sai.

Đời này có nhiều loại đường đua, đương nhiên cũng có nhiều cách đua khác nhau. Đè bẹp các đối thủ khác để đứng đầu là một trong những cách đua bạn có thể lựa chọn.

Nhưng điều tôi muốn nói ở đây không phải là dù bạn chọn cách nào, thì cũng hãy cố gắng hết sức để về đích. Tôi chỉ muốn nói, đời không chỉ là một đường đua. Đời đôi khi là thiên đường ấm áp và lộng gió, tràn ngập tiếng cười. Đời có lúc là địa ngục tăm tối bạn phải gồng mình cố gắng bình tĩnh bước qua. Đời có niềm vui, cũng có nỗi buồn. Bạn cần chạy đua. Nhưng cũng cần những phút giây sống chậm lại và hưởng thụ những gì mình có. Nếu sống chỉ để chạy thục mạng, bạn sẽ chẳng bao giờ hiểu được cuộc sống này đẹp đến thế nào.

Thứ ba, đó là triết lí nhẫn tâm. Để sống ở đời, tâm phải nhẫn và đôi khi cũng phải nhẫn tâm. Mỗi ngày con linh dương và con sư tử đều thức dậy với mục tiêu của nó. Nếu nó không kiên trì, không nhẫn nại, nó sẽ chết. Và nó cũng nhẫn tâm. Đầu tiên ta chỉ nghĩ con linh dương là kẻ yếu đuối cần bảo vệ, con sư tử là kẻ sát nhân tàn nhẫn cần bị tiêu diệt. Nhưng thử suy nghĩ kĩ lại xem. Linh dương bỏ chạy thoát thân, chính là nó đang nhẫn tâm với sư tử. Sư tử ăn thịt linh dương cũng nhẫn tâm, nhưng nếu không như vậy, nó sẽ nhẫn tâm với chính mình.

Nếu đè bẹp người khác, ta nhẫn tâm với họ.

Nhưng nếu chấp nhận hi sinh cho người, là ta ác với chính ta, thậm chí với những người bên ta, yêu ta.
Tôi từng tưởng rằng có thể sống lí tưởng bằng cách sống không nhẫn tâm, không toan tính hại ai, không nghĩ xấu về ai, không trả thù cũng không gây hấn với ai.. Nhưng rồi đến một lúc tôi nhận ra, hoá ra thế là tôi đang nhẫn tâm với chính mình, với những người yêu thương tôi nữa.
Mỗi người có một sự lựa chọn sống riêng. Nhưng dù là cách sống nào nữa, thì vẫn luôn như vậy: tâm phải nhẫn và đôi khi phải nhẫn tâm.

Cuối cùng, một trong hai loài động vật vẫn sẽ phải chết. Không phải mục tiêu nào cũng có thể đạt được. Đường đua rồi sẽ có ngày đến đích. Có kẻ chạm đích, có kẻ không. Có người thành công, cũng có người thất bại.
Nhưng Mặt Trời, lặn rồi sẽ mọc, ngày mới vẫn sẽ đến, luôn là như thế mà.

Cuối cùng cả hai cũng phải chết, vì quy luật của cuộc đời là Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Hãy để "mỗi ngày tôi chọn một niềm vui". Thành công chỉ là cảm giác, cảm nhận khi đạt được một điều gì đó. Còn Hạnh phúc là bằng lòng với những gì mình đang có và cố gắng giúp đỡ được thật nhiều người. "Hạnh phúc là Hành trình chứ không phải đích đến." Vì cái đích cuối cùng của mỗi người cũng chỉ là cái chết mà thôi. Phải không các bạn của tôi ơi?... :)
                                                                                                                                            (Sưu tầm)


Thursday, July 12, 2018

Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)

Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó có thể bền vững, muốn chơi chữ phải giữ được thiên lương. Cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của cái ác như hành động cho chữ trong tù của Huấn Cao, nhưng không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc đến thú chơi chữ là môn nghệ thuật đòi hỏi sự cảm nhận, không chỉ cảm nhận bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng tâm hồn. Người ta thưởng thức chữ không mấy ai thấy, cảm nhận mùi thơm của mực, hãy biết tìm trong mực, trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái thiện và chơi chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa. Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản ngục xúc động, "vái người tù một vái, chấp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh". Bằng sức mạnh của một nhân cách cao cả và tài năng xuất chúng, người tử tù đã hướng quản ngục đến một cuộc sống của cái thiện, và trên con đường đến với cái chết, Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường. Trong khung cảnh đen tối của tù ngục, hình tượng Huấn Cao bỗng trở nên cao lớn lạ thường, vượt lên trên những cái dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh đồng thời thể hiện một niềm tin vững chắc của con người: trong bất kì hoàn cảnh nào, con người vẫn luôn khao khát hướng tới chân - thiện - mĩ. Có ý kiến cho rằng Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến ông quan tâm chỉ là cái đẹp, là nghệ thuật nhưng qua truyện ngắn "Chữ người tử tù" mà đặc biệt là cảnh cho chữ ta cảm thấy rằng nhận xét trên là hời hợt, thiếu chính xác. Đúng là trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp, nhưng cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái thiện, thiên lương con người. Quan điểm này đã bác bỏ định kiến về nghệ thuật trước Cách mạng Nguyễn Tuân là một nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Bên cạnh đó, ta thấy truyện còn ca ngợi về viên quản ngục và thầy thơ lại - là những con người tuy sống trong môi trường độc ác, xấu xa nhưng vẫn là những thanh âm trong trẻo biết hướng tới cái thiện, và đằng sau đó còn thể hiện tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thống trị đương thời và thái độ trân trọng đối với những người có thiên lương trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà văn.

Nguồn: Internet
"Chữ người tử tù" là bài ca bi tráng, bất diệt về thiên lương, tài năng và nhân cách cao cả của con người. Hành động cho chữ của Huấn Cao, những dòng chữ cuối cùng của đời người có ý nghĩa truyền lại cái tài hoa trong sáng cho kẻ tri âm tri kỉ hôm nay và mai sau. Nếu không có sự truyền lai này, cái đẹp sẽ mai một. Đó cũng là tấm lòng muốn giữ gì cái đẹp cho đời.
Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh, gợi liên tưởng đến một đoạn phim quay chậm, từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện ảnh của Nguyễn Tuân, một buồng tối chật hẹp, hình ảnh con người ba cái đầu đang chăm chú trên một tấm lụa trắng tinh, hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân dưới xiềng đang viết chữ. Trình tự miêu tả cũng thể hiện tư tưởng một cách rõ nét: từ bóng tối đến ánh sáng, từ hôi hám nhơ bẩn đến cái đẹp. Ngôn ngữ hình ảnh cổ kính cũng tạo không khí cho tác phẩm, ngôn ngữ sử dụng nhiều từ Hán Việt để miêu tả đối tượng là thú chơi chữ. Tác giả đã phục chế cái cổ xưa bằng kĩ thuật hiện đại như bút pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân vật.
Cảnh cho chữ trong "Chữ người tử tù" là kết tinh tài năng, sáng tạo và tư tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm sự nuối tiếc đối với những con người tài hoa nghĩa khí và nhận cách cao thượng. Đan xen vào đó, tác giả cũng kín đáo bày tỏ cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, đích thực đang bị hủy hoại. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy tính nhân bản: Dù cuộc đời có đen tối vẫn còn có những tấm lòng tỏa sáng.

Tuesday, July 10, 2018

Định kiến


Có ý kiến cho rằng: “Cuộc sống thường không chật hẹp trong những ngôi nhà, trên những con đường góc phố mà chính trong những định kiến và suy nghĩ của con người”. Anh/ chị hãy nêu suy nghĩ của mình về ý kiến trên”
  
Đã bao giờ bạn thu mình lại chỉ vì mong muốn thám hiểm những miền hoang sơ của bạn bị người ta xem là ‘phù phiếm’ và ‘không thực tế’? Cuộc sống cứ thế xoay vần, bạn cam chịu bó mình trong những giới hạn, rồi lại rập cùng một chiếc khuôn với những người khác. Những bản sao hàng loạt ấy cứ dần dần xuất hiện rồi nhân lên. Những thành kiến cứng nhắc, những giới hạn giăng mắc khắp nơi sẽ trở thành rào cản cho bao nhiêu ước vọng của con người. Xã hội này sẽ ra sao nếu tất cả chỉ bám theo một con đường mòn? Tương lai sẽ ra sao nếu đôi chân ta không dám bước theo tiếng gọi của trái tim? Băn khoăn trước thực tế đáng buồn ấy, một triết nhân đã chiêm nghiệm: Cuộc sống thường không chật hẹp trong những ngôi nhà, trên những con đường góc phố mà chính trong những định kiến và suy nghĩ của con người” 

Từ thuở sơ khai, loài người đã luôn khao khát hướng về ánh sáng, luôn mơ về một cuộc đích thực. “Sống hay không sống, đó chính là vấn đề” (Shakespeare), đến tận ngày nay vẫn vẹn nguyên ý nghĩa, vẫn là niềm trăn trở của biết bao người. Con người đâu phải là giống rùa rụt cổ mãi mãi vác chiếc mai trên mình; con người chính thực là loài đại bàng kiêu hãnh luôn đối mặt với sóng gió để nâng mình lên chín tầng cao. Để được sống chân chính, con người phải sẵn sàng đương đầu với bao kẻ thù bủa vây.Một trong những kẻ thù lớn nhất của con người chính là “định kiến”. Nó là thứ cản trở hành trình đến thành công và hạnh phúc của bao người.
“Định kiến” chính là những suy nghĩ, ý kiến, những đánh giá một cách khắt khe, bảo thủ về cuộc sống và nó đã hằn thành ‘nếp’, đã trở nên mặc định bên trong não bộ trước khi ta kịp nhận thêm những thông tin khác liên quan đến sự vật, sự việc ấy. Một con người có định kiến sẽ luôn nhìn đời dưới góc độ hạ thấp, tiêu cực, chủ quan, như đóng đinh chắc nịch chẳng thể đổi thay. Dưới cặp mắt định kiến tất cả những quan điểm mới mẻ khác với mình hay đối lập với mình đều không thể chấp nhận được. 
Có thể dễ dàng thấy rằng những người mang định kiến sẽ răm rắp tuân theo những suy nghĩ đã trở thành khuôn mẫu. Họ áp đặt suy nghĩ của mình lên bất kì ai họ tiếp xúc. Chỉ cần ai đó khác cái khuôn ấy, dẫu một chút thôi là họ đã không thể chấp nhận nỗi. Họ bàn tán, xa lánh, gạt bỏ đi ‘kẻ khác biệt” kia. Tôi còn nhớ trong một bài viết trên báo, có một bạn trẻ tâm sự: " Tôi ưa nói, ưa tranh luận nhưng khi tôi 17 tuổi nếu tôi giơ tay phát biểu trước lớp về một vấn đề không đồng ý với thầy cô, tôi bị dòm ngó, tẩy chay, cười mỉa,... Hình như ở Việt Nam người ta rất khó chấp nhận việc người nhỏ tuổi hơn mình "sửa sai" hay tranh luận thẳng thắng với người lớn". Theo tôi đó là một ví dụ đơn giản của định kiến. Những người trẻ tuổi có tư duy độc lập, khi vượt qua rào cản tuổi tác có chủ kiến cá nhân thường phải đối mặt với cái nhìn và đánh giá mang tính định kiến của cộng đồng xã hội.

Định kiến là thứ tiêu cực nhưng lại có sức tồn tại lâu dài bởi nó đã bám rễ vào đám đông, lại có sức lây lan bởi nó ‘được truyền thụ mà thành’ (DaShanne Stokes). Thứ ‘truyền thụ’ ấy lại đi vào tiềm thức, chi phối cách nhìn nhận, cách suy nghĩ, thậm chí nó định hình cả con người bạn. Không thể phủ nhận, luôn có một định kiến nằm trong chính mỗi chúng ta, điều khiển ta; có những lúc, định kiến ăn sâu vào cả xã hội, làm thành cả một hệ tư tưởng chi phối loài người hằng thế kỉ. Đó cũng chính là thử thách mà cuộc đời đặt ra cho loài người, chịu thua nó, ta mãi mãi quẩn quanh trong những con hẻm chật hẹp; vượt được nó, trước mắt sẽ là trời cao biển rộng thênh thang. Chính vì vậy, “Sống” là tháo bỏ những “Định kiến bên trong mình”, vượt qua định kiến bản thân, ta sẽ nỗ lực kiện toàn cuộc sống. 


Như đã nói, định kiến là rào cản lớn nhất của con người, có khi nó chi phối cả một xã hội qua hằng thế kỉ, khiến bao nhiêu giá trị đáng lẽ được nâng niu lại bị vùi dập, bao nhiêu chân lí bị bỏ sót, bao nhiêu cảnh khổ đau khốn cùng. Còn mang định kiến, ta sẽ không thể nào mở rộng lòng ra để chấp nhận những điều mới mẻ, đối lập với mình. Thậm chí ta sẽ ra sức chì chiết, tiêu diệt những quan điểm mới khi nó còn mới manh nha. Còn mang định kiến ta sẽ nhìn đời, nhìn người một cánh sai lệch, từ đó trở nên ích kỉ, nhỏ nhen. Đã có một thời, số phận người phụ nữ bị buộc bởi ‘tam tòng tứ đức’, bị coi khinh, làm kiếp cò lặn lội với thân phận bèo bọt trong đêm trường tăm tối. Cũng một thời, giáo hội gạt phắt đi, thậm chí là xử tử, lưu đày những nhà khoa học chỉ vì họ khám phá ra một điều ngược với định kiến xưa nay, chỉ vì họ dám tuyên bố: ‘Trái đất quay quanh Mặt trời’. Một vị vua Phổ đã từng nói: “Lạc thú cao quý và vĩ đại nhất của con người là khám phá ra những chân lí mới, tiếp sau đó là gạt bỏ những định kiến cũ.” Định kiến là hòn đá lớn luôn luôn chắn đường, phải đẩy nó ra thì ta mới tiến bước được. Hòn đá lớn ấy, cá nhân 1 người không thể nâng một mình, mà cả xã hội đều phải cùng nâng. Quả vậy, theo từng bước tiến văn minh, người phụ nữ đã và đang không ngừng chứng tỏ tài năng, vị thế của mình; và Trái đất muôn đời vẫn cứ xoay quanh Mặt trời mà thôi… Tất cả những bước tiến tuyệt vời ấy, sự phát triển của nhân loại ấy, chẳng phải là nhờ sự tiếp thu điều mới và loại trừ định kiến hay sao?

Sự bảo thủ của con người không chỉ vì suy nghĩ cá nhân, mà còn bởi sự kiêu ngạo và lòng tự tôn phụ trợ. Những định kiến ấy như một thứ axit đang ăn mòn lối nghĩ, làm hoen đi đôi mắt mà đáng ra phải nhìn đời một cách sáng trong. Kẻ ấp ủ định kiến, một xã hội đầy định kiến, thì thay vì nhìn tia sáng bảy màu rực rỡ, họ chỉ nhận đúng một màu đơn điệu mà thôi. Định kiến là sợ sự đổi thay, họ sợ mất đi cái cuộc sống bình bình đang có, họ không dám đón nhận điều gì khác hơn cái họ biết – dù điều đó là chân lí. Chính điều đó đã kéo cả xã hội trì trệ và tụt dốc.

Tiếng thét đau khổ của Chí Phèo làm xót thấu tâm can bao người kia là do nguyên cớ gì? Chẳng phải vì trong cái bóng tối cuộc đời ấy, đã tồn một thứ sát nhân còn khủng khiếp hơn cường quyền và bạo lực là định kiến xã hội hay sao. Chí Phèo chính là nạn nhân của định kiến. Họ dè bỉu, xa lánh, tàn nhẫn đẩy Chí ra khỏi cõi người. Tôi khẳng định rằng, Chí Phèo không chỉ là truyện, không chỉ là một sản phẩm của hư cấu, mà xã hội từ thời của Nam Cao, hay còn trước đó nữa, cho đến tận bây giờ, vẫn còn tồn đọng thứ định kiến ích kỉ làm con người sẵn sàng đẩy con người ra xa như thế.

Đến ngày nay, vẫn nhức nhối vết thương của những cảnh đời khốn khổ khi vẫn còn đó những con người kì thị bệnh nhân bị HIV/AIDS, vẫn còn đó những bộ mặt khinh khỉnh của những người giàu nhìn những người lao động nghèo, vẫn còn kia cuộc đấu tranh bình đẳng giới và đâu đó trên trái đất này tiếng súng của cuộc chiến tranh tôn giáo, sắc tộc vẫn còn chưa nguôi.

Định kiến cố hữu đâu chỉ làm tổn thương người khác, nó còn làm nhức nhối cả chính bản thân mình. Nelson Mandela, vị tổng thống Nam Phi cả một đời đấu tranh cho quyền của người da đen – chống lại phân biệt sắc tộc, lại lo lắng khi bước lên một chuyến bay có phi cơ trưởng là người da đen. Ông đau đớn nhận ra tự bao giờ, định kiến của xã hội cũng đã thâm nhập vào ông, làm ông đã có khoảnh khắc đi ngược lại với lí tưởng cả đời mình.

Quyền được yêu thương, quyền sống thật với chính mình là quyền bất khả xâm phạm của mỗi con người. Vậy mà bao nhiêu trái tim khát yêu của con người lại bị xã hội vùi dập, chỉ bởi họ cảm thấy tình yêu đồng giới là ‘trái với tự nhiên’. Họ ngăn cấm, xúc phạm, kì thị những người đồng tính. Định kiến ấy cũng lại làm chính những con người vốn chỉ muốn yêu thương ấy cảm thấy tự ti, xấu hổ với chính mình. Họ hoặc giấu mình đi, hoặc chìm vào sa đọa, hoặc tự sát. Không ít những người con đã để lại mảnh giấy ‘Xin lỗi mẹ vì con là người đồng tính’ rồi ra đi. Đau đớn lắm, khi phải xin lỗi vì đã là chính mình! 

“Đàn bà con gái thì biết gì!” – Không chỉ một lần tôi nghe câu nói ấy vuột ra từ miệng người đối diện. Tôi từng chứng kiến một người chị bị chồng bạo hành, nhưng sau đó chị vẫn ráng nuốt nước mắt mà sống tiếp với kẻ vũ phu ấy. Khi tôi hỏi, chị chỉ cười cay đắng: “Phận con gái sinh ra đã khổ rồi, biết sao được hả em?”. Chị ơi! Sao chị lại phải tự ti như thế? Tại sao chị lại phải thu mình như thế, chị ơi? Ai bảo phận chị phải khổ? Ai bảo kiếp đàn bà chỉ được quẩn quanh góc bếp? Chính chị đã vô tình tự đặt định kiến lên mình. Thứ định kiến ấy vẫn là một cây kim nhức nhối trong quả tim nhân loại dẫu trải qua hàng thập kỉ, dẫu con người đã khoác lên mình bộ mặt hiện đại, văn minh. Thế mới biết, định kiến đáng sợ đến thế nào.

Cuộc chiến chống lại định kiến bên trong mình là một cuộc chiến khốc liệt đòi hòi sự ‘liên tục’ và nỗ lực không ngừng. Và con đường chống lại định kiến ấy duy chỉ có một, ấy là giữ vững bản tâm, sẵn sàng mở rộng lòng ra mà ‘đón nhận lấy mọi vang động của đời’. Phải “tìm mà hiểu” nhau, cũng như Elizabeth và Darcy trong tiểu thuyết ‘Kiêu hãnh và định kiến’, chỉ có thể giành thời gian để tâm thấu hiểu người khác, học cách tư duy phản biện, thì mới có thể dẹp bỏ định kiến trong mình. Thay vì sẵn sàng phủ nhận, bạn hãy thay đổi góc độ nhìn đi một chút, rằng ý kiến mới ấy không phải chống lại ta, đảo lộn cuộc sống của ta, mà nó giúp ta hoàn thiện mình hơn mà thôi. Hãy mang đôi mắt sáng trong của trẻ thơ mà tò mò quan sát thế giới này. Bạn biết đấy, đời quá rộng lớn để bạn có thể ôm chứa, vì vậy, hãy chuyển từ thái độ khẳng định sang một thái độ học hỏi và tìm những điểm hay của người khác. Tầm mắt ta lúc ấy sẽ mở rộng ra nhiều lắm, ta đều từng nghe: “Đời thay đổi khi ta thay đổi” mà.

Cuộc đời sinh ra con người là một vòng tròn với định kiến hiện hữu .Vượt thoát khỏi những định kiến, ta khỏa lấp mảnh khuyết, hoàn thiện đời mình. Muốn thay đổi người, trước hết hãy tự thay đổi chính mình. Bạn nhấc bỏ hòn đá định kiến mà bạn đặt lên vai người khác, thì sức nặng trên đôi vai bạn cũng sẽ dẫn tiêu tan. Ở tôi và bạn đều đang tồn tại định kiến bên trong mình. Ngày hôm nay, tôi đã bắt đầu hành động, còn bạn thì sao? 
                                                                                                              NMT


Friday, June 1, 2018

Những triết lí sống trong truyện ngắn "Bến quê" (Nguyễn Minh Châu)


Cuộc sống muôn màu muôn vẻ đã tạo nên trong mỗi con người niềm khao khát những điều mới mẻ lạ lẫm. Bởi vậy nhiều khi con người cứ dấn thân và mơ ước đến được một miền đất xa xôi nào đó mà quên đi những giá trị gần gũi thân thương bên mình. Hay đó lại là những phút giây con người ta không đủ bản lĩnh vượt qua những cám dỗ của cuộc sống để hướng đến những giá trị vững bền. Như một bài học nhẹ nhàng mà thấm thía tình người tình đời Nguyễn Minh Châu đã viết nên truyện ngắn Bến quê- một câu chuyện đầy sức ám ảnh mỗi khi gấp trang sách lại để hướng ta đến những triết lí, những ý nghĩa nhân sinh.

“Bến quê” là câu chuyện được kể lại qua cái nhìn, suy ngẫm của nhân vật Nhĩ, nhân vật trung tâm mà tác giả gửi gắm rất nhiều tâm tư cùng những chiêm nghiệm cuộc sống đáng để trăn trở. Nguyễn Minh Châu đã đặt ra những nghịch lí, có thể coi đó là những tình huống tạo nên nghịch lí để nói lên triết lí sống sâu sắc nhất. Những điều mà nhân vật Nhĩ đã nhận ra khi anh đang đứng ở bên kia cái dốc của cuộc đời cũng chính là những điều mà Nguyễn Minh Châu đúc rút nên, vừa mang tính trải nghiệm, vừa mang tính tổng kết cho một đời người. Hẳn rằng phải có sự tinh tế, sự thấu hiểu cũng như sự từng trải, tác giả mới có thể nhận ra chân lí hiển nhiên nhưng lại đầy chua xót và nuối tiếc ấy.

Có những sự thật vẫn tồn tại như một nghịch lí và ta bắt gặp những điều tưởng chừng như nghịch lí nhưng lại hết sức độc đáo ấy trong tình huống truyện ngắn. Nhĩ – nhân vật tư tưởng một con người đã đi rất nhiều nơi, gót chân anh đã hầu như đặt lên mọi xó xỉnh trên trái đất nhưng cuối đời anh lâm vào căn bệnh hiểm nghèo khiến toàn thân bị liệt và buộc chặt nơi giường bệnh. Tất cả sinh hoạt các nhân của anh đều phải nhờ vào người thân đặc biệt là Liên- vợ anh. Chính khi đặt nhân vật vào tình huống đặc biệt này tác giả đã gửi đến bạn đọc suy ngẫm về cuộc sống con người: cuộc đời và số phận con người luôn chứa đầy những điều bất ngờ nghịch lí vượt ra những dự định ước muốn và thậm chí cả những toan tính của con người. Ai ngờ rằng con người hai năm trước còn đang làm việc ở các nước Mĩ La-tinh thì bây giờ chỉ cần di chuyển hai chục phân cũng làm anh cam thấy mệt lữ như đi nửa vòng trái đất. Thế mới biết trong cuộc sống không thể lường trước được điều gì. Đó là điều mà Nguyễn Minh Chung muốn gửi đến bạn đọc. 

Không chỉ dừng lại ở đây nhà văn tiếp tục đưa nhân vật của mình vào những tình huống mới nơi mà những suy ngẫm mới được bộc lộ. Lúc này đây khi bị gắn chặt với chiếc giường Nhĩ đã tình cờ phát hiện ra vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông vào buổi sáng đầu thu qua ô cửa sổ. Không gian ngoài kia, những cảnh vật vốn quen thuộc nhưng lại hiện ra trong màu sắc và vẻ đẹp dường như lần đầu anh nhìn thấy. Những bông hoa bằng lăng thưa thớt cuối mùa nhưng đậm sắc hơn. “Tiết trời đầu thu đem đến cho con sông Hồng một màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra, vòm trời cũng như cao hơn”. Và cánh bãi bồi “vàng thau xen với màu xanh non kia” đối với người dân nơi đây hết sức gần gũi bình dị nhưng đối với Nhĩ nó thật mới mẻ. Nó mới mẻ bời dù đã từng đi tới không xót một nơi nào trên trái đất, thử bao của ngon vật lạ nhưng anh chưa từng để ý đến cánh bãi bồi nằm ngay cạnh nhà mình. Bởi thế cái bờ bên kia sông Hồng đối với Nhĩ là “một chân trời gần gũi mà xa lắc”. Và đến lúc này khi đã nhận ra vẻ đẹp mộc mạc gần gũi kia thì cũng là lúc anh biết mình không bao giờ có thể đặt chân đến được đó. Điều ước muốn ấy của Nhĩ chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững  bình thường và giản dị của cuộc sống – những giá trị thường bị người ta bỏ quên nhất là lúc còn trẻ khi những ham muốn xa vời đang lôi cuốn họ tìm đến. Sự thức nhận này chỉ đến với người ta ở cái độ dã từng trải, với Nhĩ đó là lúc cuối đời khi phải nằm liệt giường bệnh. Đấy là một nghịch lí trớ trêu của cuộc đời : Khi nhận ra được những giá trị đích thực và giản dị của cuộc sống thì người ta không còn thời gian và khả năng để đạt được tới. Bởi thế ở Nhĩ đó là sự thức tỉnh có xen lẫn nỗi ân hận và niềm xót xa. Chính vì vậy mỗi chúng ta khi còn kịp lúc hãy quan tâm hơn để ý nhiều hơn những điều nhỏ nhặt giản dị quanh ta chứ không phải mãi đi tìm những gì đó xa vời.

Cái triết lí này cũng được tác giả thể hiện qua hình ảnh của Liên người vợ tần tảo của Nhĩ. Có thể nói cãi quãng thời gian Nhĩ bị bệnh là quãng thời gian quan trọng có ý nghĩ lớn hơn so với cả cuộc đời bôn ba của anh. Khi đó anh được gần gũi vợ con và nhờ vậy lần đầu tiên “Nhĩ để ý thấy Liên mặc tấm áo vá”. Anh cảm nhận được sự chịu thương chịu khó sự nhẫn nhục chịu đựng của vợ mình qua “tiếng bước chân rón rén quen thuộc suốt cả một đời người đàn bà trên những bậc thang mòn lõm.” Không phải ngẫu nhiên mà tác giả để cho hình ảnh Liên xuất hiện trong dòng suy nghĩ của Nhĩ vào những ngày cuối đời. Lúc này Nhĩ mới thực sự thấu hiểu với lòng biết ơn sâu sắc người vợ: “tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ chính điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu tìm kiếm, Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này”. Liên như là hiện thân của cái bến quê mà Nhĩ đã từng vô tâm không nhận ra. Nhĩ nhìn thấy tấm áo vá của vợ khi anh đã nhận thức được giá trị của cái gần gũi, bình dị. Sự tần tảo, chịu đựng hi sinh ở Liên cũng là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam nói chung.



Và đối với truyện ngắn này cái triết lí về cuộc sống được thể hiện sâu sắc nhất có lẽ là “ con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo chùng chình”. Vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông đã khiến Nhĩ khao khát một lần đặt chân đến. Nhưng biết mình không làm gì được, cuối cùng Nhĩ đã nhờ đứa con trai là Tuấn sang bên đó hộ mình, để ngắm nhìn bãi bồi màu mỡ, phù sa. Nhưng ở đây anh lại gặp một nghịch lí nữa: đứa con không hiểu được ước muốn của người cha nên làm một cách miễn cưỡng và rồi lại bị cuốn hút vào trò chơi hấp dẫn mà nó gặp trên đường đi, để rồi có thể lờ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Anh không trách đứa con trai bởi vì “nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu họa chăng chỉ có anh đã từng trải đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng..cả những nét tiêu sơ” của nó. Ta thấy cái sự “vòng vèo hay chùng chình” đó chính là cám dỗ mà con người khó có thể vượt qua được. Nếu không có đủ mạnh mẽ, không biết tỉnh táo thì sẽ không có đủ bản lĩnh để vượt qua, dễ bị cuốn vào vòng xoáy đó. Nhĩ bất lực nhìn con trai và cố vươn tới cửa sổ “khoát khoát”. Hành động cuối cùng này của Nhĩ có thể hiểu là anh đang cố dồn chút sức lực cuối cùng để bảo đứa con trai hãy mau lên để kéo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Những hình ảnh này còn gợi ra ý nghĩa khái quát hơn: muốn thức tỉnh moi người khỏi cái vòng vèo chùng chình mà chúng ta đang sa vào trên đường đời, để dứt ra khỏi nó hướng tới những giá trị đích thực giản dị gần gũi và bền vững. Truyện khép lại bằng hình ảnh "chuyến đò ngang mỗi ngày một chuyến... vừa chạm vào cái bờ đất lở dốc đứng phía bên này". Bên này là thị thành, bên kia là bến quê. Bên này chông chênh xói lở, bên kia vững vàng bồi đắp. Sự tương phản này như một lời cảnh tỉnh về nhận thức, ý thức giữ gìn những giá trị bình dị, vẻ đẹp của cái thân tình, gần gũi, để người ta không phải thảng thốt bởi "những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ".
Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 đều là những quan sát chiêm nghiệm của nhà văn về cuộc đời và con người. Ngòi bút của Nguyễn Minh Châu hướng vào đời sống thế sự nhân sinh thường ngày để phát hiện những chiều sâu của đời sống với bao nhiêu quy luật và nghịch lí vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp trong những cách nhìn, cách nghĩ quen thuộc của xã hội và chính tác giả. Nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu là những cuộc đối chứng với quan niệm và nhận thức cũ, để nhận ra và thấu hiểu cái điều mà tác giả gọi là “cuộc đời vốn đa sự, con người thì đa đoan”. Điều đặc sắc trong Bến quê là ở chỗ triết lí cảu truyện là những chiêm nghiệm thâm trầm mà giản dị mang ý nghĩa tổng kết của một đời người, chỉ có thể có được dưới ngòi bút của một nhà văn thấu hiểu lẽ đời, tình đời, không chỉ “sống” nhiều à còn có một năng lực nghiệm sinh sâu sắc.

Nhà văn Nguyên Ngọc từng tôn vinh  Nguyễn Minh Châu “ thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay”. Trong con người và mỗi trang sách của Nguyễn Minh Châu dưới cái vẻ khiêm nhường thâm trầm , giản dị luôn cháy sáng một ngọn lửa nồng đượm – ngọn lửa được thắp lên từ khát vọng tìm kiếm sự thật và tiinh thần nhân bản bền vững , về những bài học triết lá sâu sắc về cuộc sống mà “Bến quê” là một tác phẩm như vậy. Và cái ngọn lửa ấy tiếp tục tỏa ánh sáng và truyền sức nóng của nó đến các thế hệ người đọc.
                                                                                                                            NMT

Tuyển tập đề văn nâng cao chuyên đề Truyện Kiệu - Nguyễn Du

📢Xin chào tất cả các bạn đọc của Chocolate cuối ngày, sau một thời gian "vắng mặt, vắng bài"😁 mình đã trở lại rồi đây🎉🎉🎉. Lúc này cũng đã là hè rồi nhỉ? Chắc hẳn các bạn cũng đang có cho mình những kế hoạch đi du lịch, đi trải nghiệm thực tế hay cũng có khi là đi học hè😂. Với các bạn học sinh chuẩn bị lên lớp 9 thì đây là khoảng thời gian tốt để ôn tập, chuẩn bị hành trang vững chắc cho kì thi tuyển sinh vào 10. Và trong số đó, chắc chắn rồi, sẽ có nhiều bạn sẽ tham gia vào kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh/thành phố đúng không nào? Hôm nay, đánh dấu sự trở lại của mình, mình sẽ dành tặng cho các bạn một 🎁 . Đó là bộ đề văn nâng cao về Chuyên đề Truyện Kiều👏👏👏. Hi vọng các bạn sẽ thấy có ích cho mình và dùng nó để tham khảo và ôn tập thật tốt cho kì thi sắp tới nhé!!!

Đề 1:
Nguyễn Du đã vạch ra cho mọi người thấy những thủ phạm hung ác của cuộc đời, nhưng liền sau đó, ông lại lấy số kiếp, nghiệp chướng để che lấp tội ác của chúng” (“Lịch sử văn học Việt Nam, tập 3”, NXB Giáo dục).
Hãy phân tích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du để chứng minh.

Gợi ý làm bài:
1.Khái quát về “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, từ đó giới thiệu và trích dẫn nhận định của đề:
                                          “Trăm năm trong cõi người ta,
                                            Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
                                            Trải qua một cuộc bể dâu
                                            Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
“Truyện Kiều” được Nguyễn Du mở đầu bằng những lời thơ thật tâm huyết như vậy. Và, với tinh thần nhân đạo cao quý đó, trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã miêu tả thực trạng xã hội phong kiến thối nát, tố cáo mạnh mẽ bọn thống trị đương thời và tỏ lòng thương yêu sâu sắc con người bị chà đạp. Thế nhưng, do hạn chế về tư tưởng của thời đại, Nguyễn Du đã không thể đề ra được hướng giải quyết những mâu thuẫn, bế tắc của xã hội. Hạn chế đó thể hiện rõ khi Nguyễn Du giải thích cuộc đời đau khổ của Kiều là do số kiếp, nghiệp chướng, mà thật ra là bởi chế độ mục nát đầy áp bức bất công. Cùng chung nhận định đó, sách “Lịch sử văn học Việt Nam, tập 3”, NXB Giáo dục có viết: “Nguyễn Du đã vạch ra cho mọi người thấy những thủ phạm hung ác của cuộc đời, nhưng liền sau đó, ông lại lấy số kiếp, nghiệp chướng để che lấp tội ác của chúng”.
2. Phân tích “Truyện Kiều” để chứng minh:
2 .1 Nguyễn Du đã vạch ra cho mọi người thấy những thủ phạm hung ác của cuộc đời: (HS tham khảo mục 3.1 (Giá trị hiện thực), ý b và c  ở bài “Truyện Kiều” của Nguyễn Du)
-“Truyện Kiều” là câu chuyện về cuộc đời nàng Kiều, người con gái có nhiều đức tính, phẩm chất  tốt đẹp xứng đáng được hưởng một cuộc đời yên vui, hạnh phúc:
 + Kiều xuất thân từ một gia đình lương thiện, luôn giữ vững đạo lý cương thường theo dòng nho gia (dẫn chứng).
 + Kiều là người con gái thông minh, tài sắc vẹn toàn (dẫn chứng).
 + Kiều rất giàu lòng thương người (dẫn chứng).
 + Kiều thật trong sáng, hồn nhiên trong tình yêu nhưng cũng không thiếu can đảm, sẵn sàng vượt qua những ràng buộc nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến (dẫn chứng).
- Thế nhưng, xã hội phong kiến tàn bạo đã vùi dập đời Kiều:
 +Đang sống trong những giây phút đẹp đẽ nhất của mối tình đầu thì gia đình gặp nguy biến “Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh, Rụng rời khung dệt tan tành gói may, Đồ tế nhuyễn của riêng tây, Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” , Kiều phải bán mình chuộc cha “Để lời thệ hải minh sơn, Làm con trước phải đền ơn sinh thành”.
 +Từ đó, cuộc đời nàng bắt đầu mười lăm năm lưu lạc “Hết nạn nọ đến nạn kia, Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”, để rồi cuối cùng vì quá đau khổ, nhục nhã và tuyệt vọng, Kiều đã trầm mình xuống sông Tiền Đường tự vẫn “Trông vời trời nước mênh mông, Đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang”.

-Vậy những ai đã gây ra số kiếp đoạn trường của nàng Kiều? Đó chính là những thủ phạm hung ác của cuộc đời:
+Trước hết là bọn quan lại:  tên quan xử kiện vụ án Vương viên ngoại, tên quan khác xử án vụ Thúc Ông kiện con, tên quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến, kẻ đại diện cho triều đình (dẫn chứng).

+Dưới quyền bọn quan lại như vậy, còn biết bao loại người xấu xa, “bạc ác tinh ma” thi nhau hoành hành, tác oai tác quái đối với  những người dân lương thiện: Đó là vợ con bọn quan lại: mẹ con họ Hoạn. Đó là là bọn buôn người hành động một cách công khai: như Mã Giám Sinh, Tú Bà hoặc như Bạc Bà, Bạc Hạnh. Đó là bọn tay sai mặt người dạ thú sẵn sàng thực hiện bất cứ hành động tàn ác nào miễn là có tiền: như  Sở Khanh, như Khuyển, Ưng, hoặc như lũ sai nha “đầu trâu mặt ngựa” (dẫn chứng) ,…

+Thêm nữa, ở xã hội đó, đồng tiền cũng trở thành một thế lực tàn bạo: Đồng tiền tác hại đến cuộc sống yên lành và nhân phẩm con người bị áp bức. Đồng tiền làm đảo điên  cả công lý và xã hội (dẫn chứng).
* Trong xã hội phong kiến, có rất nhiều người là nạn nhân đau khổ của những thủ phạm hung ác kể trên ; thế nhưng trong số đó, Nguyễn Du đặc biệt xót thương những người có tài có sắc. Chắc có lẽ theo Nguyễn Du, những người có tài có sắc ấy là hình ảnh tập trung rất cao về những số kiếp bi đát của con người. Và, cuộc đời Thúy Kiều là một điển hình. Bởi, Kiều có tất cả “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” trong xã hội phong kiến ấy .

 2.2 Nhưng liền sau đó, ông lại lấy số kiếp, nghiệp chướng để che lấp tội ác của chúng: (HS tham khảo mục 4 (Những hạn chế tư tưởng trong “Truyện Kiều”) ở bài “Truyện Kiều” của Nguyễn Du)
 Thay vì giải thích nguyên nhân gây ra nỗi đau khổ của Thúy Kiều là do “những thủ phạm hung ác “của xã hội phong kiến mục nát, tàn bạo, bất nhân ấy, thế nhưng  Nguyễn Du lại lấy số kiếp, nghiệp chướng để che lấp tội ác của chúng. Cụ thể:
- Do bị quy định bởi thời đại lịch sử và ý thức hệ phong kiến, nên“Truyện Kiều” không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định về tư tưởng, về quan điểm triết học của xã hội phong kiến:
+Lời tiên đoán của một thầy tướng số về cuộc đời Kiều, lời phẫn uất về cuộc đời mình củaThúy Kiều (dẫn chứng), … Tất cả đều là tiếng nói phát ngôn cho một hệ thống triết lý bao che cho cường quyền phong kiến bằng cách quy kết mọi sự việc trong cuộc đời  vào một thế lực siêu hình – thế lực thần quyền.
+Để lý giải nguyên nhân đau khổ của cuộc đời Kiều, Nguyễn Du đã đi đến triết lý bi quan, tiêu cực. Ông đã dùng thuyết “mệnh trời” của Nho giáo, thuyết “luân hồi” và “nhân quả”của Phật giáo để lý giải các nguyên do nỗi khổ của đời Kiều, như ngầm gián tiếp khuyên bảo con người chấp nhận số phận; hoặc  cam chịu và tu tâm (dẫn chứng).
 * Xuất thân từ hàng ngũ giai cấp phong kiến thống trị, nên Nguyễn Du không thể tránh khỏi những hạn chế tư tưởng nhất định đó.
3. Đánh giá chung:
 “Truyện Kiều” là một bức tranh hiện thực rộng lớn về những đau khổ của con người dưới chế độ phong kiến suy tàn. Tác phẩm cũng là tiếng kêu đoạn trường của những người bị áp bức, thể hiện tấm lòng nhân đạo cao quý của Nguyễn Du.”Truyện Kiều có những giá trị cao quý của nó, bởi qua tác phẩm, Nguyễn Du “đã vạch ra cho mọi người thấy những thủ phạm hung ác của cuộc đời”, song vẫn còn những hạn chế tư tưởng là “liền sau đó, ông lại lấy số kiếp, nghiệp chướng để che lấp tội ác của chúng”. / Tuy vậy, những hạn chế tư tưởng số mệnh, nghiệp chướng  ấy vẫn không hề làm giảm giá trị của tác phẩm và vị thế của một thiên tài nghệ thuật và lòng rung động xót thương con người của Nguyễn Du, một tâm hồn cao cả
                                                                         ]
Đề 2:
Truyện Kiều là một tiếng kêu thương, một bản tố cáo, một giấc mơ giải phóng của những con người bị quằn quại trong vũng lầy phong kiến” (“Sơ khảo lịch sử văn học Việt Nam”-Hoài Thanh)
Hãy giải thích và chứng minh ý kiến trên.

Gợi ý làm bài:
1.Khái quát về “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, từ đó giới thiệu và trích dẫn nhận định của đề:
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một kiệt tác văn học. Từ khi ra đời đến nay, tác phẩm đã có nhiều người bình phẩm.  / Đọc “Truyện Kiều”, ông Hoài Thanh có ý kiến: “Truyện Kiều là một tiếng kêu thương, một bản tố cáo, một giấc mơ giải phóng của những con người bị quằn quại trong vũng lầy phong kiến”.
2. Phân tích “Truyện Kiều” để chứng minh:
2.1 “Truyện Kiều” là một tiếng kêu thương:
 -“Truyện Kiều là một tiếng kêu thương” là cách nói rất hình ảnh về nỗi đau xót, đầy thương tâm trước cuộc đời và số phận của nàng Kiều, người con gái có nhiều đức tính, phẩm chất  tốt đẹp xứng đáng được hưởng một cuộc đời yên vui, hạnh phúc:
 + Kiều xuất thân từ một gia đình lương thiện, luôn giữ vững đạo lý cương thường theo dòng nho gia (dẫn chứng).
 + Kiều là người con gái thông minh, tài sắc vẹn toàn (dẫn chứng).
 + Kiều rất giàu lòng thương người (dẫn chứng).
 + Kiều thật trong sáng, hồn nhiên trong tình yêu nhưng cũng không thiếu can đảm, sẵn sàng vượt qua những ràng buộc nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến (dẫn chứng).
- Thế nhưng, xã hội phong kiến tàn bạo đã vùi dập đời Kiều:
 +Đang sống trong những giây phút đẹp đẽ nhất của mối tình đầu thì gia đình gặp nguy biến “Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh, Rụng rời khung dệt tan tành gói may, Đồ tế nhuyễn của riêng tây,  Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” , Kiều phải bán mình chuộc cha “Để lời thệ hải minh sơn, Làm con trước phải đền ơn sinh thành”.
 +Từ đó, cuộc đời nàng bắt đầu mười lăm năm lưu lạc “Hết nạn nọ đến nạn kia, Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”, để rồi cuối cùng vì quá đau khổ, nhục nhã và tuyệt vọng, Kiều đã trầm mình xuống sông Tiền Đường tự vẫn “Trông vời trời nước mênh mông, Đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang”./ Với những đức tính tốt đẹp ấy, Kiều xứng đáng được hưởng một cuộc đời yên vui, hạnh phúc.
2.2 “Truyện Kiều” là một bản tố cáo :
- Nói “Truyện Kiều là một bản tố cáo” bởi “Truyện Kiều” đã vạch rõ bản chất  xấu xa, tàn ác, bất nhân của chế độ phong kiến thời kỳ suy vong.
-Trong “Truyện Kiều”, có rất nhiều người là nạn nhân đau khổ của cái xã hội tàn bạo, bất nhân ấy; thế nhưng trong số đó, Nguyễn Du đặc biệt xót thương những người có tài có sắc. Chắc có lẽ theo Nguyễn Du, những người có tài có sắc ấy là hình ảnh tập trung rất cao về những số kiếp bi đát của con người. Và, cuộc đời Thúy Kiều là một điển hình. Kiều có tất cả “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” trong xã hội phong kiến ấy . Vậy những ai đã gây ra số kiếp đoạn trường của nàng Kiều?
+Trước hết là bọn quan lại:  tên quan xử kiện vụ án Vương viên ngoại, tên quan khác xử án vụ Thúc Ông kiện con, tên quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến, kẻ đại diện cho triều đình (dẫn chứng).
 +Dưới quyền bọn quan lại như vậy, còn biết bao loại người xấu xa, “bạc ác tinh ma” thi nhau hoành hành, tác oai tác quái đối với  những người dân lương thiện: Đó là vợ con bọn quan lại: mẹ con họ Hoạn. Đó là là bọn buôn người hành động một cách công khai: như Mã Giám Sinh, Tú Bà hoặc như Bạc Bà, Bạc Hạnh. Đó là bọn tay sai mặt người dạ thú sẵn sàng thực hiện bất cứ hành động tàn ác nào miễn là có tiền: như  Sở Khanh, như Khuyển, Ưng, hoặc như lũ sai nha “đầu trâu mặt ngựa” (dẫn chứng) ,…
 +Thêm nữa, ở xã hội đó, đồng tiền cũng trở thành một thế lực tàn bạo: Đồng tiền tác hại đến cuộc sống yên lành và nhân phẩm con người bị áp bức. Đồng tiền làm đảo điên  cả công lý và xã hội (dẫn chứng).
2.3 “Truyện Kiều” là một giấc mơ :
- Còn nói “Truyện Kiều là một giấc mơ” vì “Truyện Kiều” thể hiện được những ước mong, khát vọng về tự do, về công lý và về cuộc sống hạnh phúc của những con người lương thiện bị áp bức.
-Tình yêu Kim Trọng – Thúy Kiều thể hiện khát vọng mãnh liệt về tự do yêu đương:
+ Lễ giáo phong kiến khắc nghiệt chỉ cho phép con người có hôn nhân mà không quan tâm đến tình yêu. Kiều bất chấp điều đó. Ngay lần đầu gặp Kim Trọng, nàng đã để trái tim mình rung động với những ước muốn thầm kín mà tha thiết “Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không”. Khi Kim Trọng tỏ tình, nàng mạnh dạn nhận lời gắn bó và nàng đã thổ lộ tình yêu của mình qua tiếng đàn đắm say. Sau này, suốt quãng đời lưu lạc, nàng vẫn luôn nhớ tới Kim trọng với một tình yêu không hề thay đổi “Còn duyên may lại còn người, Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa”.
+Kim Trọng cũng xứng đáng với tình yêu của Kiều. Vì tương tư Kiều mà chàng quên lãng cả việc học hành kinh sử để đến nỗi “Phòng văn hơi giá như đồng, Trúc se ngọn thỏ tơ chùng phím loan”. Chàng đau đớn khi nghe tin Kiều bán mình cuộc cha và lưu lạc giang hồ. Suốt 15 năm trôi qua, chàng vẫn không bao giờ nguôi quên người tình xưa. Ngay khi đi làm quan, Kim Trọng vẫn sẵn sàng bỏ cả công danh phú quý, dấn thân vào gian lao, nguy hiểm để mong tìm gặp Kiều “Rắp mong treo ấn từ quan, Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng qua, Dấn mình trong áng can qua, Vào sinh ra tử họa là thấy nhau”.
*** Có thể nói, Kim-Kiều chống lại lễ giáo phong kiến bằng mối tình đẹp đẽ, thủy chung của mình. Họ cho thấy sức mạnh của những con người khao khát tình yêu và tự do hôn nhân.

- Ở nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du không chỉ gửi gắm khát vọng tự do, mà cả khát vọng về công lý:
+Trong xã hội phong kiến hầu như không có khe hở nào cho tự do, hầu như tất cả đều bị bóp nghẹt bởi bàn tay độc ác của bọn vua quan, thì Từ Hải chính là hình mẫu lý tưởng về một con người tự do. Từ khinh bỉ bọn vào luồn ra cúi để tranh nhau hai chữ công hầu “Ao xiêm ràng buộc chi nhau, Vào luồn ra cúi công hầu mà chi”. Từ không hề biết đến hai chữ “trung quân”, Từ thích sống và đã sống một cuộc đời thật tự do và ngang tàng “Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”.
+Quan niệm công lý của Từ Hải chính là  quan niệm công lý của nhân dân. Từ không coi Kiều là một gái giang hồ. Từ đối xử với Kiều bằng một mối tình thắm thiết trước sau như một. Người yêu thương
Kiều thì có nhiều, nhưng chỉ có Từ mới đủ sức mạnh giúp Kiều báo ân báo oán. Chỉ một cơn giận sấm sét của Từ là tất cả bọn người “bạc ác tinh ma” phải chịu cảnh “máu rơi thịt nát tan tành”.
* Đúng là qua hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du đã thể hiện một  cách tập trung ước mơ mãnh liệt về tự do và công lý của nhân dân trong một thế kỷ được mệnh danh là thế kỷ nông dân khởi nghĩa.
- “Truyện Kiều” kết thúc bằng sự đoàn tụ của gia đình Kiều và sự tái hợp của mối tình Kim-Kiều ở cuối tác phẩm phải chăng đây cũng chính là sự phản ánh ước mơ, khát vọng về một cuộc sống ấm êm, hạnh phúc của những người dân lương thiện mà Nguyễn Du muốn gửi gắm qua tác phẩm?
3. Đánh giá chung:
Đọc “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, chắc chắn chúng ta sẽ tán thành ý kiến trên của ông Hoài Thanh./  Có lẽ bởi “Truyện Kiều là một tiếng kêu thương, một bản tố cáo, một giấc mơ giải phóng của những con người bị quằn quại trong vũng lầy phong kiến” đó mới là nội dung tư tưởng đích thực của “Truyện Kiều” . Đồng thời, cũng có lẽ bởi ý kiến của ông Hoài Thanh đêm lại cho chúng ta thêm một phương hướng quý báu để tìm hiểu và đánh giá giá trị của kiệt tác bất hủ này .Có thể mượn lời thơ của Tố Hữu khẳng định tài năng của Nguyễn Du và giá trị “Truyện Kiều” của ông:
“Tiếng thơ ai động đất trời,
  Nghe như non nước vọng lời ngàn thu,
  Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,
  Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
(Kính gửi cụ Nguyễn Du)

]
Đề 3:
Trong hơn 150 năm, “Truyện Kiều” tuy chưa là tiếng kèn giục xung trận, nhưng đã là nơi tập hợp tất cả những đau khổ, uất ức, căm hờn cũng như nơi đoàn kết muôn mộng tưởng, ước mơ, khát vọng” (“Bản cáo trạng cuối cùng trong “Truyện Kiều” “ của Xuân Diệu).
Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên dựa vào nội dung “Truyện Kiều” và những đoạn trích tác phẩm đã học và đọc thêm.

Gợi ý làm bài:
1.Khái quát về “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, từ đó giới thiệu và trích dẫn nhận định của đề:
Kết thúc bài thơ “”Độc Tiểu Thanh ký”, Nguyễn Du viết: “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như”(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, Người đời ai khóc Tố Như chăng?”. Hai câu thơ là lời trăn trối, băn khoăn, thể hiện nỗi cô đơn đến tột cùng của Nguyễn Du, ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đến nay, chưa đầy 300 năm, thế hệ chúng ta, lớp con cháu của Nguyễn Du đã thấu hiểu nỗi niềm đồng cảm và đánh giá rất cao thiên tài nghệ thuật và tấm lòng nhân đạo cao cả được ông gửi gắm qua sáng tác của mình, trong đó đặc biệt là “Truyện Kiều”./ Cùng chung nhận định ấy, nhân dịp kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguỹen Du, trong “Bản cáo trạng cuối cùng trong “Truyện Kiều”, Xuân Diệu, nhà thơ nổi tiếng trong nền thi ca hiện đại Việt Nam viết: Trong hơn 150 năm, “Truyện Kiều” tuy chưa là tiếng kèn giục xung trận, nhưng đã là nơi tập hợp tất cả những đau khổ, uất ức, căm hờn cũng như nơi đoàn kết muôn mộng tưởng, ước mơ, khát vọng”.
2. Phân tích “Truyện Kiều” để chứng minh:
2.1 “Trong hơn 150 năm, “Truyện Kiều” chưa là tiếng kèn giục xung trận:

-Đúng là từ khi ra đời đến nay, ít ra cũng đã hơn 150 năm, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du chưa phải  là “tiếng kèn giục xung trận”. Bởi, “Truyện Kiều” chỉ là một tác phẩm văn học, một công trình nghệ thuật được xây dựng bằng chất liệu là ngôn từ.
-Tuy nhiên, tài năng sáng tạo nghệ thuật và tấm lòng nhân đạo cao ca của Nguyễn Du đã làm nên điều kỳ diệu đó. Đọc “Truyện Kiều”, chúng ta thấy không có dòng thơ nào trực tiếp kêu gọi, giục giã xung trận để đấu tranh cho tự do, cho công lý và hạnh phúc.Thế nhưng, chính từ cuộc đời hẩm hiu và số phận bất hạnh của các nhận vật, từ nỗi khổ đau và ước mong, khát vọng của những con người lương thiện, mà Thúy Kiều là một điển hình, “Truyện Kiều”  không chỉ đã tạo nên nỗi căm giận ngút ngàn đối với xã hội phong kiến tàn ác, bất nhân, mà còn gây ra ở mỗi người đọc chúng ta niềm xúc động, đồng cảm sâu sắc với những ước mơ, khát vọng về tự do, về công lý và về cuộc sống hạnh phúc của tất cả con người lương thiện.
2.2  Nhưng “Truyện Kiều” đã là nơi tập hợp tất cả những đau khổ, uất ức, căm hờn cũng như nơi đoàn kết muôn mộng tưởng, ước mơ, khát vọng”:
 a. Trước hết, “Truyện Kiều” đã là nơi tập hợp tất cả những đau khổ, uất ức, căm hờn:
-Trong “Truyện Kiều”, có rất nhiều người là nạn nhân đau khổ của cái xã hội phong kiến  tàn bạo, bất nhân; thế nhưng trong số đó, Nguyễn Du đặc biệt xót thương những người có tài có sắc. Chắc có lẽ theo Nguyễn Du, những người có tài có sắc ấy là hình ảnh tập trung rất cao về những số kiếp bi đát của con người. Và, cuộc đời Thúy Kiều là một điển hình. Kiều có tất cả “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, là “nơi tập hợp tất cả những đau khổ uất ức, căm hờn”  trong xã hội phong kiến ấy .
-“Truyện Kiều” là câu chuyện về cuộc đời nàng Kiều, người con gái có nhiều đức tính, phẩm chất  tốt đẹp xứng đáng được hưởng một cuộc đời yên vui, hạnh phúc:
 + Kiều xuất thân từ một gia đình lương thiện, luôn giữ vững đạo lý cương thường theo dòng nho gia (dẫn chứng).
 + Kiều là người con gái thông minh, tài sắc vẹn toàn (dẫn chứng).
 + Kiều rất giàu lòng thương người (dẫn chứng).
 + Kiều thật trong sáng, hồn nhiên trong tình yêu nhưng cũng không thiếu can đảm, sẵn sàng vượt qua những ràng buộc nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến (dẫn chứng).
- Thế nhưng, xã hội phong kiến tàn bạo đã vùi dập đời Kiều:
 +Đang sống trong những giây phút đẹp đẽ nhất của mối tình đầu thì gia đình gặp nguy biến “Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh, Rụng rời khung dệt tan tành gói may, Đồ tế nhuyễn của riêng tây, Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” , Kiều phải bán mình chuộc cha “Để lời thệ hải minh sơn, Làm con trước phải đền ơn sinh thành”.
 +Từ đó, cuộc đời nàng bắt đầu mười lăm năm lưu lạc “Hết nạn nọ đến nạn kia, Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”, để rồi cuối cùng vì quá đau khổ, nhục nhã và tuyệt vọng, Kiều đã trầm mình xuống sông Tiền Đường tự vẫn “Trông vời trời nước mênh mông, Đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang”.
-Vậy những ai đã gây ra số kiếp đoạn trường của nàng Kiều? Đó chính là những thủ phạm hung ác của cuộc đời:
 +Trước hết là bọn quan lại:  tên quan xử kiện vụ án Vương viên ngoại, tên quan khác xử án vụ Thúc Ông kiện con, tên quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến, kẻ đại diện cho triều đình (dẫn chứng).
 +Dưới quyền bọn quan lại như vậy, còn biết bao loại người xấu xa, “bạc ác tinh ma” thi nhau hoành hành, tác oai tác quái đối với  những người dân lương thiện: Đó là vợ con bọn quan lại: mẹ con họ Hoạn. Đó là là bọn buôn người hành động một cách công khai: như Mã Giám Sinh, Tú Bà hoặc như Bạc Bà, Bạc Hạnh. Đó là bọn tay sai mặt người dạ thú sẵn sàng thực hiện bất cứ hành động tàn ác nào miễn là có tiền: như  Sở Khanh, như Khuyển, Ưng, hoặc như lũ sai nha “đầu trâu mặt ngựa” (dẫn chứng) ,…
 +Thêm nữa, ở xã hội đó, đồng tiền cũng trở thành một thế lực tàn bạo: Đồng tiền tác hại đến cuộc sống yên lành và nhân phẩm con người bị áp bức. Đồng tiền làm đảo điên  cả công lý và xã hội (dẫn chứng).

b.Và “Truyện Kiều” đã là nơi đoàn kết muôn mộng tưởng, ước mơ, khát vọng:
-Trong “Truyện Kiều”, có rất nhiều người là nạn nhân đau khổ của cái xã hội phong kiến  tàn bạo, bất nhân. Cuộc đời Thúy Kiều là một điển hình. Bởi, Kiều có tất cả “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, là “nơi tập hợp tất cả những đau khổ uất ức, căm hờn” trong xã hội phong kiến ấy. Đồng thời, cũng chính Kiều và rộng hơn là Kim Trọng, là Từ Hải, là gia đình Vương viên ngoại, … đã góp phần thể hiện được những ước mong, khát vọng về tự do, về công lý và về cuộc sống hạnh phúc của những con người lương thiện bị áp bức. Nói cách khác, “Truyện Kiều” đã là nơi đoàn kết muôn mộng tưởng, ước mơ, khát vọng.

-Tình yêu Kim Trọng – Thúy Kiều thể hiện khát vọng mãnh liệt về tự do yêu đương:
+ Lễ giáo phong kiến khắc nghiệt chỉ cho phép con người có hôn nhân mà không quan tâm đến tình yêu. Kiều bất chấp điều đó. Ngay lần đầu gặp Kim Trọng, nàng đã để trái tim mình rung động với những ước muốn thầm kín mà tha thiết “Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không”. Khi Kim Trọng tỏ tình, nàng mạnh dạn nhận lời gắn bó và nàng đã thổ lộ tình yêu của mình qua tiếng đàn đắm say. Sau này, suốt quãng đời lưu lạc, nàng vẫn luôn nhớ tới Kim trọng với một tình yêu không hề thay đổi “Còn duyên may lại còn người, Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa”.
+Kim Trọng cũng xứng đáng với tình yêu của Kiều. Vì tương tư Kiều mà chàng quên lãng cả việc học hành kinh sử để đến nỗi “Phòng văn hơi giá như đồng, Trúc se ngọn thỏ tơ chùng phím loan”. Chàng đau đớn khi nghe tin Kiều bán mình cuộc cha và lưu lạc giang hồ. Suốt 15 năm trôi qua, chàng vẫn không bao giờ nguôi quên người tình xưa. Ngay khi đi làm quan, Kim Trọng vẫn sẵn sàng bỏ cả công danh phú quý, dấn thân vào gian lao, nguy hiểm để mong tìm gặp Kiều “Rắp mong treo ấn từ quan, Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng qua, Dấn mình trong áng can qua, Vào sinh ra tử họa là thấy nhau”.
* Có thể nói, Kim-Kiều chống lại lễ giáo phong kiến bằng mối tình đẹp đẽ, thủy chung của mình. Họ cho thấy sức mạnh của những con người khao khát tình yêu và tự do hôn nhân.
- Ở nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du không chỉ gửi gắm khát vọng tự do, mà cả khát vọng về công lý:
+Trong xã hội phong kiến hầu như không có khe hở nào cho tự do, hầu như tất cả đều bị bóp nghẹt bởi bàn tay độc ác của bọn vua quan, thì Từ Hải chính là hình mẫu lý tưởng về một con người tự do. Từ khinh bỉ bọn vào luồn ra cúi để tranh nhau hai chữ công hầu “Ao xiêm ràng buộc chi nhau, Vào luồn ra cúi công hầu mà chi”. Từ không hề biết đến hai chữ “trung quân”, Từ thích sống và đã sống một cuộc đời thật tự do và ngang tàng “Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”.
+Quan niệm công lý của Từ Hải chính là  quan niệm công lý của nhân dân. Từ không coi Kiều là một gái giang hồ. Từ đối xử với Kiều bằng một mối tình thắm thiết trước sau như một. Người yêu thương Kiều thì có nhiều, nhưng chỉ có Từ mới đủ sức mạnh giúp Kiều báo ân báo oán. Chỉ một cơn giận sấm sét của Từ là tất cả bọn người “bạc ác tinh ma” phải chịu cảnh “máu rơi thịt nát tan tành”.

* Đúng là qua hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du đã thể hiện một  cách tập trung ước mơ mãnh liệt về tự do và công lý của nhân dân trong một thế kỷ được mệnh danh là thế kỷ nông dân khởi nghĩa.
- “Truyện Kiều” kết thúc bằng sự đoàn tụ của gia đình Kiều và sự tái hợp của mối tình Kim-Kiều ở cuối tác phẩm phải chăng đây cũng chính là sự phản ánh ước mơ, khát vọng về một cuộc sống ấm êm, hạnh phúc của những người dân lương thiện mà Nguyễn Du muốn gửi gắm qua tác phẩm?
3. Đánh giá chung:
 Trong bài thơ “Kính gửi cụ Nguyễn Du, Tố Hữu đã nhân danh những con người của thời đại hôm nay mà đánh giá rất cao tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du gửi gắm trong “Truyện Kiều”: 
“Trải bao gió dập sóng dồi,
                                         Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha”
 Nguyễn Du mãi mãi xứng đáng là thiên tài  nghệ thuật và “Truyện Kiều” của ông mãi mãi là một kiệt tác bất hủ trong kho tàng văn học dân tộc. Bởi “Trong hơn 150 năm, “Truyện Kiều” tuy chưa là tiếng kèn giục xung trận, nhưng đã là nơi tập hợp tất cả những đau khổ, uất ức, căm hờn cũng như nơi đoàn kết muôn mộng tưởng, ước mơ, khát vọng”.
]
Đề 4:
“Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
                                           Sắc tài sao mà lắm truân chuyên”
                                                                                    (“Đọc Kiều”-Chế Lan Viên)
Hãy chứng minh Thúy Kiều tài sắc mà lắm truân chuyên. Từ đó cho biết ý kiến của em về hai câu thơ trên.
Gợi ý làm bài:
1.Khái quát về “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, từ đó giới thiệu và trích dẫn 2 câu thơ của Chế Lan Viên:
 “Truyện Kiều” là truyện Nôm tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam, là một kiệt tác của văn học nước nhà. Nó không chỉ là kết quả sáng tạo của một thiên tài, mà còn là điểm hội tụ của mấy thế kỷ văn học. Từ khi tác phẩm ra đời đến nay, “Truyện Kiều” đã được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với mọi tầng lớp độc giả.
 Đọc “Truyện Kiều”, mỗi người có những nhận xét và bình phẩm khác nhau./ Riêng Chế Lan Viên, nhà thơ nổi tiếng của thi ca hiện đại Việt Nam, có viết:
“Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
                                                                  Sắc tài sao mà lắm truân chuyên”
                                                                                                             (Đọc Kiều)
2. Phân tích “Truyện Kiều” để chứng minh và bình luận ý 2 câu thơ của Chế Lan Viên:
a. Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” là một cô gái đạt đến độ tuyệt vời về “sắc tài”:
 Để miêu tả “sắc tài” của nàng Kiều, ngòi bút Nguyễn Du đã khái quát trong sự so sánh với Thúy Vân:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
  So bề tài sắc lại là phần hơn”
Thúy Vân đã đẹp rồi, nhưng so với em Vân, vẻ đẹp của Kiều hơn hẳn. Kiều đẹp một cách “sắc sảo mặn mà”. Nghĩa là Kiều không chỉ  đơn thuần là đẹp, mà vẻ đẹp của Kiều còn là đẹp của sự “sắc sảo” về trí tuệ, đẹp ở sự “mặn mà” của tình cảm. / Và cũng như vậy, Thúy Vân đã tài rồi, nhưng so với em Vân, tài của Kiều còn có “phần hơn” hẳn.
* Hai chị em Kiều và Vân quả là rất đẹp, tuy “Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”, nhưng Thúy Kiều đẹp và có tài hơn Thúy Vân.
+Trước hết là nói về “sắc” của Kiều. Như để minh họa cho vẻ đẹp ấy của nàng Kiều, Nguyễn Du lại trực tiếp miêu tả một cách ước lệ trong sự đối sánh với thiên nhiên:
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” 
Tác giả chỉ tập trung vào đôi mắt, bởi đôi mắt là “cửa sổ của tâm hồn”. Đôi mắt Kiều đẹp, trong sáng long lanh như làn nước mùa thu; đôi lông mày Kiều đẹp thanh thoát như nét núi mùa xuân. Cô Kiều hiện lên với vẻ đẹp đến mức hoa phải ghen vì không thắm bằng, liễu phải hờn vì không xanh bằng.
Và, để khẳng định thêm cái “sắc” tuyệt đỉnh của Kiều, Nguyễn Du còn viết thêm:
“Một hai nghiêng nước nghiêng thành”
Đúng là sắc đẹp của Kiều hiếm có và hiếm thấy “nghiêng nước”, “nghiêng thành”.
+Thế nhưng, tài năng Kiều còn được nhân đôi:  “ Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”
 Cách Nguyễn Du tả tài năng của Kiều cũng thật độc đáo. Khác với cách tả Thúy Vân, miêu tả nàng Kiều, nhà thơ chỉ dành có ba câu gợi tả về nhan sắc, nhưng phải dùng đến nhiều câu tả về tài năng. Nàng Kiều là một cô gái thông minh và có tài:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Theo quan niệm thẩm mỹ phong kiến, một người con gái tài năng phải giỏi cả cầm-kỳ-thi-họa. Kiều đã đạt đến mức lý tưởng ấy. Chỉ riêng tài thơ của nàng cũng đã làm nhiều người khâm phục. Chẳng hạn, lúc đi tảo mộ “Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần”, hay khi buộc phải cầm bút đề thơ trước cửa quan liền được khen ngợi “Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân”/ Đặc biệt, tài đàn của nàng đã là “nghề riêng”, tức là sở trường, năng khiếu; và vượt lên trên mọi người khác “ăn đứt hồ cầm một trương”./ Kiều không chỉ hiểu biết âm nhạc, mà còn là một nhạc sĩ “tay lựa nên chương”, lại là một nhạc sĩ  có một tâm hồn, bởi cung đàn bạc mệnh do Kiều sáng tác chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm “Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”.
b. Thế nhưng, nếu nói đến Thúy Kiều mà Chế Lan Viên chỉ đề cập độ tuyệt vời về “sắc tài” không thôi cũng chưa đủ. Bởi, qua ngòi bút của Nguyễn Du,Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” là một cô gái đạt đến đỉnh cao của sự vẹn toàn và rất lý tưởng:
+Thúy Kiều vốn xuất thân từ một gia đình lương thiện, luôn giữ vững đạo lý cương thường theo dòng nho gia: “Có nhà viên ngoài họ Vương, Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung, Một trai con thứ rốt lòng, Vương Quan là chữ nối dòng nho gia, Đầu lòng hai ả tố nga, Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân”.
+Kiều rất giàu lòng thương người: trong lần đi Hội Đạp Thanh, chỉ một nấm mồ vô chủ và nghe Vương Quan kể về cuộc đời Đạm Tiên bạc mệnh, xấu số “Sống làm vợ khắp người ta, Hại thay thác xuống làm ma không chồng” cũng khiến nàng “Lòng đâu sẵn mối thương tâm, Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa”.
+Kiều thật trong sáng, hồn nhiên trong tình yêu nhưng cũng không thiếu can đảm, sẵn sàng vượt qua những ràng buộc nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến:“Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để đến với Kim Trọng. Kiều yêu tha thiết và thủy chung, tuy vậy khi cần nàng biết đặt chữ tình sang một bên để trước hết làm tròn phận sự của một người con hiếu thảo “Để lời thệ hải minh sơn, Làm con trước phải đền ơn sinh thành”.
* Với những đức tính, phẩm chất tốt đẹp ấy, Kiều xứng đáng được hưởng một cuộc đời yên vui, hạnh phúc.
c.Và, cuộc đời Thúy Kiều trong “Truyện Kiều”lại lắm truân chuyên:
-Có sắc có tài, thế nhưng xã hội phong kiến tàn bạo đã vùi dập đời Kiều. 
 +Đang sống trong những giây phút đẹp đẽ nhất của mối tình đầu thì gia đình gặp nguy biến “Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh, Rụng rời khung dệt tan tành gói may, Đồ tế nhuyễn của riêng tây, Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” , Kiều phải bán mình chuộc cha “Để lời thệ hải minh sơn, Làm con trước phải đền ơn sinh thành”.
 +Từ đó, cuộc đời nàng bắt đầu mười lăm năm lưu lạc “Hết nạn nọ đến nạn kia, Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”, để rồi cuối cùng vì quá đau khổ, nhục nhã và tuyệt vọng, Kiều đã trầm mình xuống sông Tiền Đường tự vẫn “Trông vời trời nước mênh mông, Đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang”.
-Vậy những ai đã gây ra số kiếp đoạn trường của nàng Kiều? Đó chính là những thủ phạm hung ác của cuộc đời:
 +Trước hết là bọn quan lại:  tên quan xử kiện vụ án Vương viên ngoại, tên quan khác xử án vụ Thúc Ông kiện con, tên quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến, kẻ đại diện cho triều đình (dẫn chứng).
 +Dưới quyền bọn quan lại như vậy, còn biết bao loại người xấu xa, “bạc ác tinh ma” thi nhau hoành hành, tác oai tác quái đối với  những người dân lương thiện: Đó là vợ con bọn quan lại: mẹ con họ Hoạn. Đó là là bọn buôn người hành động một cách công khai: như Mã Giám Sinh, Tú Bà hoặc như Bạc Bà, Bạc Hạnh. Đó là bọn tay sai mặt người dạ thú sẵn sàng thực hiện bất cứ hành động tàn ác nào miễn là có tiền: như  Sở Khanh, như Khuyển, Ưng, hoặc như lũ sai nha “đầu trâu mặt ngựa” (dẫn chứng) ,…
 +Thêm nữa, ở xã hội đó, đồng tiền cũng trở thành một thế lực tàn bạo: Đồng tiền tác hại đến cuộc sống yên lành và nhân phẩm con người bị áp bức. Đồng tiền làm đảo điên  cả công lý và xã hội (dẫn chứng).
* Cuộc đời  cô Kiều quả đúng là “lắm truân chuyên”.
d. Cuộc đời cô Kiều được ví như đời dân tộc: (HS có thể bình luận những hướng khác nhau. Dưới đây chỉ là gợi ý)
-Ý kiến Chế Lan Viên là đúng, tuy vậy, cách dùng hình ảnh về cuộc đời một cô gái “sắc tài” vẹn toàn để liên tưởng so sánh với “đời dân tộc” Việt Nam là chưa tương đồng về  đối tượng so sánh.
-Thế nhưng, chính thái độ, tấm lòng nhiều xót thương, đồng cảm với thân phận một con người, rộng hơn là một dân tộc của Chế Lan Viên đã chứng tỏ được tấm lòng yêu thương con người, yêu quê hương, dân tộc của ông.
-Ngày nay, lịch sử đã sang trang, những “cô Kiều mới” đã vươn lên, được tự do phô diễn sắc đẹp và tài năng mà không gặp một trở lực nào (dẫn chứng). Và,  đất nước ta đã hoàn toàn đổi mới, dân tộc

ta đã và đang khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế (dẫn chứng). Dù trước mắt, còn nhiều khó khăn, nhưng với truyền thống của dân tộc, với sự lãnh đạo của Đảng, nhất định chúng ta sẽ vượt qua mọi nỗi “truân chuyên” để hưởng được niềm sung sướng, vinh quang,… như cảnh Kiều đoàn tụ ở phần kết thúc của “Truyện Kiều”.
3. Đánh giá chung:
Thúy Kiều “Sắc tài sao mà lắm truân chuyên”. Nguyên nhân do chế độ phong kiến thời mục ruỗng suy vong thật là tàn ác, bất nhân. Cảm thương cuộc đời và số phận cô Kiều, nạn nhân của xã hội phong kiến ấy, Chế Lan Viên đã so sánh với “đời dân tộc” Việt nam ta. Tuy chưa tương đồng, nhưng đây là một liên tưởng thật bất ngờ, thú vị. / Hai câu thơ giúp ta biết về thái độ, tấm lòng nhiều xót thương với thân phận một con người, rộng hơn là một dân tộc của Chế Lan Viên, đồng thời hiểu thêm về nhân vật Thúy Kiều nói riêng, về “Truyện Kiều” nói chung.

]
Đề 5:Tìm hiểu thân phận người phụ nữ trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Tìm hiểu đề:
-Về nội dung: Thân phận người phụ nữ được Nguyễn Du thể hiện trong “Truyện Kiều”.
-Về hình thức: Sử dụng tổng hợp các thao tác: phân tích, chứng minh, bình luận.
Những ý cơ bản cần có trong bài làm: (Dành luyện cho HS giỏi văn)
1. Tại sao thân phận người phụ nữ lại trở thành đề tài trung tâm của văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX?
2. Thân phận người phụ nữ trong “Truyện Kiều” có gì khác với thân phận của những người phụ nữ trong các tác phẩm khác cùng thời không?
-Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn-Đoàn Thị Điểm): nỗi sầu nhớ của người phụ  nữ có chồng đi chinh chiến.
-Cung oán ngâm (Nguyễn Gia Thiều): cuộc sống đau khổ, cô độc của người phụ nữ trong chốn cung cấm.
-Thơ Hồ Xuân Hương: khát vọng vượt lên số phận phụ thuộc, bấp bênh của người làm lẽ và người phụ nữ.
-Truyện Kiều (Nguyễn Du): Số phận người phụ nữ gắn liền với sự thăng trầm của xã hội. Người phụ nữ trong “Truyện Kiều” có cuộc sống bấp bênh, trôi nổi nhưng họ luôn có ý thức vẫy vùng để thoát mình ra khỏi dòng xoáy của các thế lực vô hình và hữu hình.
3. Thân phận người phụ nữ trong “Truyện Kiều” như thế nào?
- Thúy Vân: người phụ nữ của lễ giáo, luôn biết cam chịu với những gì cuộc đời gán ghép cho mình.
-Đạm Tiên: kiếp đời ngắn ngủi của một kỹ nữ. Với nhân vật này, Nguyễn Du còn nhận ra sự phũ phàng của người đời đối với người bạc mệnh: “Ay mồ vô chủ ai mà viếng thăm”.
-Thúy Kiều: tài hoa nhưng bạc mệnh. Nguyễn Du đã thấy sức phản kháng mạnh mẽ và nghị lực vươn lên chống chọi với định mệnh không ngừng của người phụ nữ. Điều đó thể hiện khát vọng tình yêu và hạnh phúc của họ. Qua nhận vật Thúy Kiều, người ta nhận thấy được những số phận khác nhau:
+Số phận của người phụ nữ tài hoa.
+Số phận của gái lầu xanh.
+Số phận của người phụ nữ làm vợ lẽ.
+Số phận của người phụ nữ có chồng là người anh hùng trong xã hội loạn lạc.
4.Lý giải tại sao Nguyễn Du nhận thức về thân phận người phụ nữ đầy đủ như vậy?
5. Nhận thức của Nguyễn Du về nguyên nhân gây nên nỗi đoạn trường của người phụ nữ?